| Home | TRANG NGAM THO | link

 <<NGUYỄN MINH CHÂU TIỂU ĐOÀN 3 SÓI BIỂN  --  NGUYỄN MINH CHÂU TIỂU ĐOÀN 3 SÓI BIỂN >>


 
    
 

 

 


 
    
 

 

flag.jpg

Quốc Ca Việt Nam Cộng Hòa

tuongtiecthuong.jpg

 
 
Tiếc thương

Tiếc Thương

 

Mặc cho mưa nắng bão bùng ,

Ngồi lì trên đá anh hùng kiên gan .

Súng anh hạ xuống trên đùi ,

Anh ngồi thư thả ngậm ngùi tiếc thương !

Mắt anh hướng ở trời xa …

Như là tiếc nhớ một thời liệt oanh ?

Anh là đại diện bao người ,

Hy sinh gục ngã tan thành bụi tro .

Ghi ơn giữ nước giữ nhà ,

Người đời tạc tương anh ngồi nghỉ ngơi .

Đến nay thế cuộc đổi dời ,

Tượng anh giật xuống xoá tan một thời !

Dù rằng nơi ấy trống không ,

Người người vẫn nhớ Tượng Người Tiếc Thương !!!

 

Tuyết-Nga

 

 

MỤC LỤC

TRANG NHẠC :

 
          Ai cho tôi tình Yêu (Vô Thường-Guitar)
  
Giọt mưa thu (Vô Thường-Guitar)
 
Em đã cho tôi bầu trời (Vô Thường-Guitar)
  
Cánh buồn xưa(Vô Thường-Guitar)
 
Ai về sông Tương (Vô Thường-Guitar)
  
Bây giờ tháng mấy (Vô Thường - Guitar)
Dư âm (Vô Thường Guitar)
Biệt Ly (Vô Thường - Guitar)
LK.Rumba (Vô Thường - Guitar)
Biết ra sao ngày sau (Vô Thường-Guitar

 

 


 
    
 

    
     
   Bấm dấu Play Nhạc  midi : Dĩ Vãng
(tản mạn cuộc sống)

huyhieuoksmallweb.jpg

thuduc.jpg

  
Những chiều không có em

 

 

           VÀI LỜI GIỚI THIỆU

 

Quý vị thân mến,

Tôi xin giới thiệu cùng quý vi đây là trang nhà của riêng tôi làm cho khuây khoả trong hoàn cảnh hiện tại trên chiếc xe lăn.

Vì cần sự thư giản tinh thần nên cái web site của chúng tôi chỉ có nhạc hay, êm dịu và thơ chứ không có những bài viết về chính trị hay những bài chiến sử.

Xin quý vị thông cảm khi đọc những dòng thơ  đơn giản bài tỏ tâm tình của chúng tôi vì chúng tôi không phải là văn sĩ hay thi sĩ.

Những tấm hình trong đây là tượng trưng cho cuộc đời đổi thay của chúng tôi.

Những tấm hình cũ, lá cờ vàng ba sọc đỏ và bản đồ quận Dĩ An, tỉnh Biên Hoà ( nơi tôi phục vụ đến ngày cuối cùng ) và bản đồ Việt Nam là do các cố vấn Mỹ của tôi tặng lại khi họ bay từ các Tiểu Bang bay qua California thăm chúng tôi.

Các ông ấy đã nói rằng : chúng tôi biết ông Châu đã mất tất cả nên chúng tôi nghĩ rằng những kỷ vật nầy rất quý giá trong đời ông nơi xứ Mỷ của chúng tôi.

Tôi nghĩ rằng chúng ta là tỵ nạn khắp bốn phương trời  không bao giờ quên được ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nếu thế cờ chính trị đổi ngựợc lại thì chúng ta không mang kiếp sống lưu vong. Nếu miền Nam thắng cuộc chiến thì miền Bắc sẽ không phải là trại tù khổng lồ. Bọn cộng sản thật vô cùng hèn hạ khi đánh người đã té ngựa. Chỉ có bọn man ri mọi rợ mới hành động như thế.

Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những vị anh hùng tử trận trong cuộc chiến bảo vệ chính nghĩa tự do. Chúng tôi tưởng niệm những bạn tù bị chết tức tửi trong các trại tù khổ sai. Chúng tôi xin tưởng niệm vong hồn của những thuyền nhan vô phước đã bỏ mình dưới biển sâu hay rừng thẩm khi đi tìm cuộc sống tự do.

 

Chúng tôi xin thành thật cảm ơn quý vị đã vào thăm viếng trang web nầy và kính chúc mọi sự bình an.

 

Chiến hữu Nguyễn Minh Châu TĐ3 Soibien

 

Xin bấm vào Link dưới đây xem hình ảnh kỷ cuộc đời đổi thay :

http://www.picturetrail.com/gallery/view?p=999&gid=563993&uid=405925&members=1

 

birdsflya.gif

metearsofwomanb.jpg

Nước Mắt Mùa Xuân

( Mùa Xuân 1975 )

 

Nước mắt mùa Xuân khóc trong đêm dài !

Mùa Xuân năm ấy xé nát tim tôi

Một đời binh nghiệp như áng mây trôi

Nhớ mùa Xuân ấy nỗi buồn khôn vơi !

 

Nước mắt mùa Xuân khóc cho cuộc đời !

Miền Nam hạnh phúc vận thời đổi thay

 Trăm ngàn chiến sĩ nhục tù đày ãi

Buồn cho vận nước, người người khóc than !

 

Nước mắt mùa Xuân khóc nước để tang ?

Mùa giặc rợ vào, tan nhà nát cửa

Dân lành lương thiện chúng cũng không chừa

Đoạt cả tài sản, đày kinh tế mới ?

 

Nước mắt mùa Xuân chảy tận biển khơi ?

Khóc cho người tìm tự do bỏ mạng 

Giữa lòng đại dương, đói khát lầm than

Người may mắn lưu xứ tháng năm dài ?!

 

Nước mắt mùa Xuân bao giờ ngừng chảy ?

Mẹ Việt Nam ơi ! Mẹ đau lòng lắm ?!

Khổ vì đàn con bỏ xứ biệt tâm ?

Bao giờ có lại mùa Xuân tươi thắm ?

 

Mẹ thấy đàn con về vùng đất ấm

Nhưng giặc còn, ngày về ôi quá xa !

Con mong “ ta về ta tắm ao ta “

’ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn ” ?!

 

Nguyễn Minh-Châu TĐ3 Soibien

Tháng 4-2007

 

 
1974

colchau.jpg

Lính Mãi Trong Anh

 

Lính đã in sâu vào huyết quản

Chiến trường là mạch máu của anh

Theo tháng năm thân xác hao mòn

Tóc đổi bạc, chiến trường không phai nhạt

 

Nhớ thuở chiến tranh chưa tàn cuộc

Xông pha trận chiến chẳng sờn gan

Nôn nao ao ước sớm thanh bình

Bên con bên vợ thú điền viên

 

Rồi nay đất nước gọi thanh bình

Bên con bên vợ có đoàn viên

Đời sống lưu vong buồn muôn thuở

Trận tiền binh lửa khó mà quên .

 

          Tuyết Nga

 

xmas06.jpg

 

Mai Em Về

 

Mai em có về thăm miền đất ấm

Hãy nhặt dùm anh nấm đất bên đường

Chỉ con cháu mình màu đất quê hương

Đất tẩm nhiều máu của người lính chiến

 

Mai em về, nhớ thăm vùng giới tuyến

Tìm lại vết xưa trên lộ kinh hoàng

Dân ta hãi hùng, rên siết lầm than

Do giặc vào gieo rắc nỗi câm hờn

 

Mai em về thăm Quảng Ngải, Bồng Sơn

Hãy ngắm dùm anh những đồi Sim tím

 Và hái dùm anh một nhánh hoa Sim :

Quà của lính mang về từ chiến trận

 

Mai em về, nhớ đến thăm một lần

 Núi rừng đất đỏ Phước Tuy, Bình Gỉa

Đồng đội của anh dũng cảm xông pha

Giệt giặc tham tàn miền Bắc vô đây

 

Mai em về, ghé thăm lại miền Tây

Ngắm cảnh trăng rằm chiếu sáng Hậu Giang

Thăm các làng quê nắng ấm chiều vàng

Nơi đây nhiều anh hùng đã gục ngã

 

Mai em có về tắm biển quê nhà

Nếm dùm anh mùi biển ấm quê hương

Không như xứ người, lạnh như băng đá

Biển lạ mênh mông, nhìn buồn ảm đạm

 

Mai em có về thăm miền đất ấm

Thăm dùm anh nấm mộ hoang bên đường

Của những anh hùng chiến sĩ đáng thương

Tron cuộc đời hiến thân cho tổ quốc !

 

Nguyễn Minh-Châu – TĐ3 soibien

  Noel 2006

tuyet-ngaa1.jpg

Ôm Sầu Viễn Xứ

 

Mấy mươi năm ôm sầu viễn xứ !

Ngày em đi lá úa vàng rơi

Ra đi tất cả đều bỏ lại  !

Lòng quặn thắt em vượt biển khơi  .

 

Đã mấy năm ôm sầu viễn xứ !

Tiếng quê hương vang tận đáy lòng

Rạt rào như biển gào dậy sóng

Quê hương ơi ! Người có biết không ?

 

Bao năm rồi sống nơi xứ lạ ?

Mùa Đông lạnh lẽo hồn tê tái

Mẹ Việt Nam ! con tội tình gì ?  

Sống trong cõi buồn dài lê thê !

 

Nay chưa hết nỗi sầu viễn xứ !

Ôm hận ra đi dạ bàng hoàng

Âm thầm vượt sóng mùa lá đổ

Ngẫm đi tính lại mấy Thu sang ?

 

Em rất buồn khi xa đất tổ

Mong ngày nào nước được bình yên

Em trở về quê hương yêu dấu

Sống xứ mình hết sầu triền miên !!

 

Nguyễn Minh Châu TĐ3 Soibien

Kỷ niệm
ngày vơ tôi dẫn 6 con trẻ vượi biển bình yên

mc1.jpg

                Tuổi ấu thơ

(Hồi ký: Cuộc Đời Đổi Thay )

Tôi đã hân hạnh được đọc nhiều quyển sách hồi ký trong nhiều năm qua, có quý vị cựu chiến hữu đã viết rất nhiều về cuộc đời chiến sĩ gian khổ, hào hùng và oanh liệt qua rất nhiều trận đánh trong những năm chinh chiến. Nhiều vị cựu tù cải tạo cũng đã kể lại cuộc sống lao tù CS thật đau đớn, nhục nhã ê chề trong các trại tập trung từ Bắc chí Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Có những vị đã viết hồi ký kể lại đời sống lưu vong chẳng mấy vui, vì với tuổi đời mòn mõi sau những năm lao tù Cộng sản mà phải bắt đầu lại cuộc sống mới nơi xứ lạ quê người và lòng luôn ray rức nhớ về quê hương vì:

 

Mang thân mất nước lưu vong

Lạc loài xứ lạ kiếm tìm tự do

Nước ta xứ bé nhỏ nghèo

Nhưng  không đâu sánh cho bằng Việt Nam

( Trích bài tho Bơ Vơ của Tuyết Nga )

Đọc tiếp......

                               

 

mchau.jpg

Tâm Tình

Của Một Thế Hệ

( Trích trong Hồi ký Cuộc Đời Đổi Thay )

“ Kiếp sống là một chuỗi dài sầu tủi.

Vui là bao chỉ luống những ưu phiền “

Vài lời mở đầu :

Những người được sanh ra trong thập niên 30 và 40 dưới thời Pháp thuộc đều bị ảnh hưởng của ba cuộc chiến.

Trong những năm gần kết thúc đệ nhị Thế chiến, quân Nhựt Bản đã mang quân qua chiếm đóng toàn cõi Đông Dương Việt, Miên và Lào. Quân đội Đồng Minh dùng Không lực dội bom vào các căn cứ quân sự của Nhựt đã gây nhiều thiệt hại cho dân chúng và đồng bào Việt Nam phải sống trong sự nguy hiểm, lo âu. Những trận không chến hãi hùng giữa đôi bên làm cho ân chúng rất khiếp sợ. Quân Nhựt làm kinh tế nước nhà bị băng hoại gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hàng triệu đồng bào ruột thịt miền Bằc đã chết thảm thương vì đói.  Đọc tiếp......

thuduca.jpg

 
 
 
Những Ngày 

 Cuối Cùng

 Đời Binh Nghiệp .

30 tháng 4 năm 1975.

 

 

Đây là ngày mà không ai có thể quên được đến khi nhắm mắt lìa cõi trần gian đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu, nhứt là với những chiến binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

 

Trong phần nầy tôi xin kể lại tâm trạng não nề vào những ngày cuối cùng của các chiến sĩ âm thầm trong bóng tối vì ít được ai để ý tới họ. Đấy là những chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, và các viên chức xã ấp cũng như lực lượng CSQG, cán bộ XDNT ( những chiến sĩ áo đen luôn sống rất gần gủi người dân thôn ấp ), và các chiến sĩ Nhân Dân Tự Vệ đã hy sinh ở lại cố thủ quận Dĩ An tới giờ phút cuối cùng.

 

Tôi xin ghi ơn những người đã tận tình giúp nước và cộng tác với tôi trong nhiều năm qua và xin thành kính tưởng niệm những người đã hy sinh vì tổ quốc.

 

Họ là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ được hưởng ánh vinh quang

Nhưng can đảm và tận tình giúp nước.

 

Đọc tiếp...

 

 

Trên Vùng Đt Ha

( Trích trong hồi ký “ Cuộc Đời Đổi Thay và Tâm Tình Một Thế Hệ “ )

  Chiến hữu mũ xanh Nguyễn Minh Châu

  “ Từ khi non nước điêu tàn

Mang thân lưu xứ lòng man mác buồn ! “

Hai hoàn cảnh khác biệt của hai lần đi Mỹ.

Lần thứ nhứt tôi được sang Mỹ du học tại trường Fort Benning, thuộc Tiểu Bang Geogia Hoa Kỳ năm 1956 và đang mang cấp bực Thiếu uý . Ngày ra trường khoá 5 Thủ Đức chúng tôi còn mang cấp bực của Pháp với một gạch vàng trên vai trông cũng oai lắm ! và người dân hay gọi chúng tôi là Quan Một hoặc là Ông Một, nhưng trông vẻ mặt chúng tôi còn rất ngay thơ không có vẻ gì là người thanh niên chững chạc. Đôi khi tôi cũng tự cảm thấy hơi e thẹn vì mới bắt đầu dấn thân vào cuộc đời binh nghiệp còn quá trẻ với cấp bực Thiếu uý, trong khi có nhiều ông Hạ sĩ quan và binh sĩ tuổi đáng tuổi cha hoặc chú của tôi.

 

Khi vào các nhà hàng ăn bên Mỹ chúng tôi gọi Beer để uống thường hay bị Cảnh sát hạch hỏi giấy tờ, vì lúc bấy giờ giờ có rất ít sĩ quan Việt Nam du học, nên họ cứ tưởng chúng tôi là học sinh hay sinh viên người Trung Hoa còn trẻ chưa đủ tuổi được phép uống rượu. Một thời gian sau, cảnh sát thành phố đã hiểu biết chúng tôi là sĩ quan du học, chúng tôi không còn bị khuấy nhiểu nữa. Nhóm của chúng tôi thuộc khoá thứ hai tại quân trường nầy.

 

Chúng tôi cũng rất bực mình khi dân chúng Mỹ cứ gọi chúng tôi là  “ The Chinese “ . Lúc bấy giờ có nhiều người Mỹ không biết nước Việt Nam là ở đâu? Chúng tôi phải giải thích là nước Việt Nam nằm trong vùng Indochina thì họ mới hiểu biết xuất sứ của chúng ta. Nghĩ mà buồn cho dân tộc mình là một nước nhược tiểu bị Pháp đô hộ hằng trăm năm và cùng chung số phận với các nước trong liên bang Đông Dương, nên họ chẳng biết tên và vị trí của xứ Việt Nam ta đã có trên bốn ngàn năm văn hiến.

Năm 1956 chúng tôi được đi du học bằng máy bay Pan Of America vé hạng nhứt như thượng khách, ghế ngồi rộng rãi. Lần đầu tiên trong đời được đi phi cơ thấy sao cái khung cảnh trên máy bay sạch sẻ, thơm tho và sang trọng quá, không phải như thuở tôi còn là học trò ngồi trên những chiếc xe đò đi về miền Tây chật hẹp, cũ kỷ, ọp ẹp và dơ bẩn mà lúc xưa tôi thường đi về quê vào những lúc nghỉ hè. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi được thưởng thức những bửa ăn đối với tôi rất là sang trọng với các thức ăn Âu Mỹ thật lạ khẩu với bánh mì và bơ sửa  ngon lành, nên tôi cảm thấy hãnh diện và vui thích lắm !

Các cô tiếp viên Mỹ trẻ đẹp tiếp đãi các sĩ quan Việt Nam du học rất lịch sự tử tế. Vấn đề bất đồng ngôn ngữ làm cho chúng tôi gặp khó khăn khi cần họ giúp vấn đề gì. Mặc dù chúng tôi đã có học chút ít sinh ngữ Anh ở Trung học, nhưng bây giờ mới thấy vốn liếng Anh văn của mình chẳng nhằm nhò gì nên cũng ngại ngùng lắm khi cần tiếp xúc với các cô tiếp viên hàng không . Đây cũng là lần thứ nhứt tôi được nghe giọng nói dễ thương của mấy cô đầm Mỹ, nhưng khác hẵn cách phát âm của các ông giáo sư Việt Nam đã dạy chúng tôi ở trường. Thật buồn cười cho anh em chúng tôi là khi nghe các cô tiếp viên nói những tràng tiếng Ăng Lê để hướng dẫn cách xử dụng các túi cấp cứu trên phi cơ, anh em chúng tôi ngơ ngác như con nai vàng,  cũng như vịt mà nghe sấm. Chúng tôi chỉ nghe được loáng thoáng vài tiếng nên phải để mắt chăm chú nhìn sự biểu diễn của họ cũng hiểu được phần nào. Đôi khi muốn nói với các cô tiếp viên hàng không những điều gì mà bí quá nên anh em chúng tôi pha đại vài tiếng Tây vào. Các cô tiếp viên Mỹ lại càng mù tịt còn hơn chúng tôi dốt tiếng Ăng Lê nữa.

Và lần thứ nhì vào cuối năm 1979, tôi qua Mỹ với tư cách là thuyền nhân tỵ nạn từ Thailand với số thứ tự thuyền nhân của tôi là “ T - 60662 “. Mỗi thuyền nhân đều có con số thứ tự bắt đầu bằng chữ Alphabet, thí dụ chữ “ T “ là thuyền nhân tỵ nạn từ Thailand, “ M “ là tỵ nạn từ Malaysia vv…  Đến nay tôi vẫn còn nhớ con số “ T “ nầy và có lẽ sẽ nhớ nó mãi tới chết không quên vì tôi đã thuộc nằm lòng như thuộc số quân của tôi trong Quân đội.

Mỗi lần Ban chỉ huy trại dùng loa phóng thanh gọi thuyền nhân chuẩn bị hành trang để lên đường đi định cư họ kêu tên họ kèm theo con số “ T “ cho khỏi bị trùng người.  Mỗi khi trại gọi thông báo danh sách, ai ai cũng lắng nghe và hồi họp chờ đợi gọi tên mình. Những ai đã được tuyên thệ lâu rồi và chỉ còn chờ ngày đi Mỹ mà bị lọt sổ trong những lần Ban chỉ huy trại đọc danh sách là buồn lắm ! vì mọi người rất mong tới nơi định cư sớm để lo ổn định cuộc sống và còn lo việc bảo lãnh gia đình.

Tôi rất vui mừng khi được xuất trại Songkhla để sang Hoa Kỳ, nhưng trong lòng tôi không khỏi buồn tủi vì lần đi nầy tôi là một chiến sĩ bại trận, ra tù rồi vượt biên, bây giờ tôi phải xin xỏ được đến vùng đất của họ để dung thân. Tôi được đối xử đồng đều giống như bao nhiêu thuyền nhân khác, chứ không phải được đối xử quí trọng như một sĩ quan đồng minh của Hoa Kỳ được mời sang du học như năm xưa. 

Lần nầy tôi cùng các thuyền nhân được chở bằng máy bay Charter DC 9 cũ kỷ. Họ cho ăn đồ fast food, mỗi người một phần cơm chiên đựng trong hộp giấy, chớ đâu được ăn uống sang trọng và được uống rượu Beer hay Champagne như hồi thuở đi du học bằng máy bay du lịch. Ghế ngồi nhỏ hẹp chật ních nên rất mệt mỏi vì bay đường xa, nhưng lòng tôi cảm thấy vui sướng và phấn khởi, vì lần đi nầy là bỏ xứ mà ra đi để chạy chết.

Tôi bước chân xuống phi trường Oakland lúc 8 giờ đêm ngày 31 October năm 1979, ngày lễ Halloween của trẻ con Mỹ. Mỗi năm đến ngày lễ nầy là tôi nhớ ngay kỷ niệm ngày tôi mới đặt chân lên vùng đất hứa.

Khi vừa bước ra khỏi phi cơ vào lúc tiết trời giữa mùa Thu, có luồng gió hơi mát lạnh rất dễ chịu. Trước đây vài tháng, khi vừa bước chân đến bờ biển Thailand tôi đã hít một hơi thở rất khoan khoái của luồng gió biển mát rượi vì biết là tôi đã thoát chết trong tay cộng sản và cũng thoát chết vì sóng to của biển cả trong mấy ngày lênh đênh trên chiếc thuyền con.

Hôm nay, một lần nữa tôi hít một hơi thật dài và rất vui sướng một luồng không khí tự do trên một xứ có nhân quyền. Rồi nay mai đây tôi sẽ có cơ hội tìm một cuộc sống mới nơi xứ văn minh và giàu mạnh nhứt hoàn cầu. Tôi đã có được cuộc sống an toàn, tự do và tôi sẽ làm được bất cứ việc gì tôi có thể làm theo khả năng. 

Tất cả thuyền nhân tỵ nạn phải vào phòng làm việc của ban Y tế để khám sức khỏe lại trước khi cho về nhà của người bảo trợ. Cô y tá Mỹ nhìn hồ sơ lý lịch và hồ sơ bịnh lý

của tôi được mang đến từ Thailand. Cô nhìn thấy tôi chống gậy rồi cô ấy lắc đầu, làm tôi nghĩ rằng chắc cô Mỹ nầy thấy tôi bị tàn phế vì chiến tranh Việt Nam và bị tù khổ sai ở núi rừng miền Bắc nên thương hại tôi chăng ?. Nhưng sau đó cô hỏi tôi một câu cộc lốc: “ Ông có đi làm được không? ” Tôi nhận định ngay là chắc chị đầm Mỹ nầy nghĩ mình qua đây rồi sẽ ăn bám chánh phủ Mỹ mới hỏi tôi câu nầy. Tôi chỉ trả lời vắng tắt : “ Ở Việt Nam tôi còn đánh giặc được, qua đây làm cái gì mà chẳng được!”  Cô ấy trả lời : “ I do believe you”. Sau đó cô ấy trả túi hồ sơ tỵ nạn lại cho tôi và tôi sáp nhập vào toán của những người thuyền nhân ( boat people ) đi theo diện “ hội chùa “ một danh từ mà ở trại tỵ nạn hay gọi những người không có thân nhân ruột thịt bảo lãnh.

 

Gia đình Mỹ bảo trợ tôi ở tại thành phố Carmel thuộc Monterey County, một thành phố  rất đẹp có nhiều du khách và nơi đây có nhiều tài tử và dân nhà giàu cư ngụ. Carmel nằm cạnh bờ biển xinh đẹp nổi tiếng của tiểu bang California. Hiện nay ông Thị trưởng của thành phố nầy là tài tử Film Cowboy Clint EastWood. Rất may mắn cho tôi, sau 2 tuần đến Mỹ ông giám đốc Cơ quan đã tiếp giúp tôi định cư chịu mướn tôi làm Cố vấn tỵ nạn.

( Resettlement counselor ) với số lương $5.00 một giờ.

Qua đây làm việc mới thấy Anh ngữ của mình còn quá kém mà phải tiếp xúc với nhiều người Mỹ trong mọi lãnh vực khác nhau. Cách phát âm bậy bạ chẳng đúng giọng, mình cứ nói mà họ cứ  “ what “ mãi, thật cũng mắc cở và chán nản quá. Tôi lo lắng và buồn lắm, nhưng hết sức cố gắng học hỏi thêm mà làm việc để kiếm tiền gởi về cho vợ con. 

Nhận thức được hiện tình, tôi trao dồi thêm Anh ngữ như đọc sách báo, nghe truyền hình, học cách phát âm lại và nhờ làm việc tiếp xúc với người Mỹ nhiều nên vốn Anh văn ngày càng khá hơn. 

* Một chút quà cho vợ con.

Tôi được người Mỹ là chủ hảng sản xuất đồ gỗ bảo trợ qua hội World Relief, trụ sở chính của Hội nằm tại New York. Hội trợ cấp cho tôi $200.00 để lo sắm sửa lúc ban đầu, nhưng người bảo trợ giúp tôi còn hơn số tiền nầy nhiều lắm. Tôi được vị bảo trợ mua cho một chiếc xe hai cửa bốn chỗ ngồi hiệu Datsun mới toanh, giá tiền chiếc xe nầy lúc đó là sáu ngàn dollars. Trong khi đó, đa số tỵ nạn qua trước tôi lái những chiếc xe cũ kỷ hiệu Pinto mà mấy bà tỵ nạn gọi là xe Bín Tồ, nghe cũng ngộ ngộ. Vào lúc đó, hể thấy xe Pinto chạy ngoài đường dân Mỹ ở đây biết ngay là “ Boat people “.

Tôi rất mang ơn lòng nhân từ của vị bảo trợ tôi. Nhưng chúng tôi đã mất liên lạc với nhau vài năm sau khi gia đình chúng tôi di chuyển lên thành phố San Jose. Chúng tôi có được tin buồn rằng cơ sở làm ăn của người bảo trợ bị phá  sản và họ đã đi đến Tiểu Bang khác.

Tôi rất lấy làm sung sướng vì thấy cuộc đời mình nay được lên hương. Nhưng tôi không dám lạc quan và tự hào, vì nhớ ông bà Việt Nam thường nói mấy câu rằng : “ Sông có khúc người có lúc “ và  “ hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai “.  Nhưng, nào ai có biết được chặng đường tiếp nối của cuộc đời mình tới nữa rồi sẽ ra sao ? Tôi cứ rán làm hết sức của tôi để lo cho vợ con còn kẹt lại quê hương trong hoàn cảnh thiếu thốn và tương lai của con tôi sẽ là mù mịt nếu còn sống dưới chế độ cộng sản man rợ. Còn chuyện “ ngày sau sẽ ra sao ? “ cũng một phần do cái số Trời định, “ mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên “.

Tôi lãnh được cái check đầu tiên sau hai tuần đầu làm việc còn nguyên vẹn vì người bảo trợ chưa muốn tôi ra ở riêng nên vấn đề ăn ở không phải tốn kém. Nhân dịp lễ Thanksgiving tôi xin nghỉ thêm vài ngày phép để xuống miền Nam Cali, trước hết là thăm hai người ân nhân của tôi là cựu Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư lịnh Hải Quân và cựu Trung tướng Lê Nguyên Khang, Tư lịnh Thuỷ Quân Lục Chiến của tôi . Sau đó tôi nhờ cô em bà con gởi một thùng quà trị giá $200.00 về Việt Nam. Tôi nghĩ rằng vợ con tôi sẽ bán nó ra để có một số tiền lo cho cuộc sống được đở khổ nơi quê nhà. Tôi cảm thấy vui sướng vô cùng vì đến bây giờ tôi mới bắt đầu làm ra tiền để giúp được gì cho vợ con tôi, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Gia đình đoàn tụ.

Tôi nhớ lúc còn chiến tranh, là trai thời loạn với cuộc sống rày đây mai đó trên bốn miền chiến thuật và sự chết chóc rất gần kề nên cuộc đời binh nghiệp cũng lãng tử lắm. Những chuyện trái tim bên lề thật tình là cũng khó tránh khỏi, nhưng tôi cố không để bị lôi cuốn vào cảnh có trăng rồi quên đèn nên tôi không dám đèo bồng mà gánh thêm người yêu  làm vợ, để cho gia đình được êm ấm và hạnh phúc. Tôi vẫn giữ vững vàng sự thuỷ chung với vợ con mà tôi cũng nhớ lắm trong những lúc đi chinh chiến xa nhà và gian khổ. Vợ con tôi ở hậu phương cũng như các bà vợ của chiến sĩ rất lo lắng và ngóng trông chúng tôi trở về bình yên từ miền hành quân, sau mỗi chuyến đi.

Đời người chiến sĩ nhọc nhằn

Dấu tình riêng rẻ trọn cùng nước non

Tuy nhiên cũng lúc chạnh lòng

Thương người vợ trẻ cô phòng lẻ loi

Thức khuya hôm sớm một mình

Thay chồng nuôi trẻ phụng thờ mẹ cha

             

 ( Trích một đoạn thơ của TN )

Bây giờ vợ con tôi đang nôn nóng chờ đợi tôi bảo lãnh sang Mỹ còn hơn là thuở xưa mà hằng ngày chờ đợi chúng tôi trở về bình an từ miền hành quân nơi xa.

Thời gian tôi tạm sống cuộc đời độc thân bên xứ lạ quê người là thời gian mà tôi phải phấn đấu tư tưởng về vấn đề tình ái cũng gay go lắm. Lúc nầy tôi được bốn sáu tưổi đời, cũng không còn trẻ gì mà cũng chưa phải là già lắm. Nhưng tôi không thể quên được vợ và con nhỏ đang trong cảnh sống vất vả tại quê nhà. Cái xúc cảm làm cho tôi nhớ mãi là lần đầu tiên khi tôi cùng bà bảo trợ vào chợ Super Market Safeway, tôi nhìn thấy thức ăn và bánh trái tràn ngập trong chợ làm tôi vô cùng đau xót vì nghĩ tới con mình cũng như những đứa trẻ Việt Nam khác đang bị bọn cộng sản cho ăn đói.

Với kinh nghiệm làm cố vấn tỵ nạn trong nhiều năm, tôi cũng đã gặp nhiều hoàn cảnh phũ phàng lắm. Có những  ông qua Mỹ trước như tôi còn bỏ lại vợ con hoặc một số bà đi vượt biên lọt mà chồng con vì lý do gì mà bị kẹt lại. Những ông nầy có người phụ nữ khác và các bà nọ cũng có người đàn ông khác. Qua những tháng năm dài, tình cảm bạn bè trở thành mối tình yêu thấm thiết rồi chính thức ăn ở với nhau và sanh con đẽ cháu. Đến khi ông chồng hoặc bà vợ dẫn một bầy con vượt biên đến nước thứ hai thì hậu quả là họ bị nhứt đầu vì hoàn cảnh éo le và khó xử cho cả đôi bên. Tôi thấy những trường hợp nầy không có ít lắm đâu.

 

Tôi cho rằng những cảnh xáo trộn gia đình như thế là do chế độ cộng sản bạo tàn đã gây ra những cuộc vượt biên, nên mới có tình trạng kẻ ở người đi.

Đúng 5 giờ 30 chiều ngày 31 tháng December năm 1979, sau khi đi làm ở sở về tôi nhận được lá thơ như hình thức một bức công điện, nhắn tin cho biết là vợ tôi và và sáu đứa con nhỏ tôi đã vượt biển tới trại tỵ nạn Kota Baru, Malaysia vào thượng tuần tháng December năm 1979. Tôi rất bàng hoàng và ngạc nhiên vì không ngờ là vợ và các con tôi đã vượt biên lọt, nhưng dưới lá thơ có chữ ký mà tôi vẫn còn nhớ ràng ràng là nét chữ ký của vợ tôi. Trong lá thơ cũng có ghi rõ tên tuổi của vợ và của sáu đứa con từ đứa đầu đến cháu út. Tôi xem rất kỷ tên và năm sanh của vợ tôi và sáu con thật đúng không còn chi nghi ngờ nữa. 

Tôi lặng người đi trong khoảnh khắc vì xúc động, rồi nỗi vui mừng làm tôi chảy nước mắt !. Sau nhiều tháng lo âu chờ đợi tin tức gia đình bên quê nhà, bức công điện đến với tôi như “ một phép nhiệm mầu “ .

Tôi liền điện thoại đến hảng của người bảo trợ báo tin mừng nầy và họ đã hứa là sẽ giúp tôi tiếp khi gia đình tôi qua tới Mỹ, vì tôi mới qua làm việc được hai tháng chưa đủ khả năng để lo cho gia đình.

Vợ tôi và các cháu được Trưởng trại Mã Lai rất ưu đãi vì ông Thiếu tá trưởng trại nói với vợ tôi rằng : Chúng tôi sẽ đặc biệt cho bà một ân thưởng là vì bà là người phụ nữa đầu tiên đã can đảm lèo lái con thuyền đến xứ chúng tôi an toàn. Ông sĩ quan Mã Lai có hỏi vợ tôi đi vượt biển từ đâu và bằng cách nào ? Vợ tôi mới lật hải đồ ra chỉ lộ trình đi biển và dùng cái hải bàn để dẫn hướng. Các sĩ quan Mã Lai rất thán phục và hỏi bà có phải là nữ quân nhân không ? vợ tôi trả lời : vì chồng tôi là một cựu sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam đã vượt biên đi trước và đang sống bên Mỹ. Lúc xưa tôi cũng đã được chồng tôi chỉ dẫn cách xử dụng bản đồ và cách xử dụng địa bàn của Quân đội.

Ông Thiếu tá trưởng trại cho mở hồ sơ tỵ nạn cho vợ con tôi ngay khi nhập trại để được Mỹ cho phỏng vấn sớm và ông đã giúp vợ tôi gởi lá thơ báo tin cho tôi.

Một ngày sau khi được tin từ Mã Lai tôi liền nhờ tổng đài điện thoại giúp tôi có số phone của trại tỵ nạn Kota Baru và tôi đã gọi điện thoại thăm gia đình tôi mỗi tuần. Đây là một ân huệ của trại cho vợ tôi mà chưa ai có được.

Lúc gia đình tôi qua đến Mỹ thì tôi cũng đã có chút kinh nghiệm lo cho người tỵ nạn mới tới nên vấn đề giấy tờ và thủ tục không có gì khó khăn. Gia đình tôi bây giờ là tám người tất cả mà với chiếc xe hai cửa chỉ có 4 chổ ngồi nên mỗi lần di chuyển phải mất hai bận.

Tôi còn nhớ vợ tôi đã hỏi một câu nữa đùa và nữa thật với tôi rằng : Bộ anh tưởng vợ và con anh ở lại Việt Nam mút mùa hay sao mà anh mua xe có 4 chỗ ngồi ? Anh trở lại sống cuộc đời độc thân bên xứ Mỹ nầy nên mua chiếc xe đủ chỗ để chở chàng và nàng đi thôi phải không ? Thật ra vì không dám đòi hỏi lòng tốt của người bảo trợ nên tôi nói với vị ấy là mua cho tôi một chiếc xe nho nhỏ cho rẻ tiền để có chân đi làm là quí lắm rồi.

Trời sanh voi sanh cỏ.

Lúc tôi cô đơn mới bước chân lên vùng đất hứa tôi chỉ có một cái túi xách tay bên trong có vài bộ đồ lót và bộ đồ Tây tôi mặc đi Mỹ. Tôi đã suy tư nghĩ ngợi và lo lắng rằng nếu vợ con tôi qua tới Mỹ rồi, không biết tôi có lo nổi để ổn định cuộc sống gia đình nơi xứ người lúc ban đầu được không ? Nhưng tôi nhớ tới câu nói Trời sanh voi sanh cỏ mà cảm thấy bớt lo đi phần nào. Tôi đã sống trong trại tù khổ sai mà cũng không chết được mà qua xứ nầy đâu có dễ dàng chết vì đói rách.

Rồi vợ con đã đoàn tụ với tôi ngày 18 tháng June năm 1980.  Tất cả sáu cháu đều còn nhỏ phải đi học nên cuộc sống có vất vả và khó khăn lắm. Với tiền lương chỉ có $5.00 một giờ mà phải nuôi gia đình tám người không đủ sống. Vợ tôi cố gắng tìm được một việc làm tại sở Y tế của thành phố Seaside thuộc Monterey County để lo cho gia đình đở khỗ hơn.

Đầu năm 1981 tôi xin được việc làm cũng tại Cơ quan định cư của thành phố San Jose với số lương khá hơn.Vợ tôi đã thi đậu khoá học về những danh từ Y khoa “ Medical Terminology “ và được nhận vào nhà thương  Santa Clara Valley Medical Center làm thông dịch viên giúp người tỵ nạn Việt Nam không nói được tiếng Anh. Cuộc sống của gia đình bắt đầu tạm ổn định từ đấy nhưng cũng chưa khá giả mấy.

Nhưng lần hồi rồi cũng đâu vào đó, ông bà mình hay nói là giống như < bánh ích lột     lần > , sáu đứa con tuần tự và lần lượt ra trường rồi đi làm. Cuộc sống gia đình bắt đầu tương đối được thoải mái.                                                                            

Con cái lớn lên đã thành gia thất. Gia cảnh khởi đầu từ lúc tôi đơn thân độc mã qua Mỹ một mình, bây giờ tất cả con, dâu , rễ và cháu nội ngoại tổng cộng là hai bốn người, con số cũng khá đông trong một gia đình Việt Nam.

Bây giờ hồi tưởng lại ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi không khỏi ngậm ngùi nhớ lại cuộc đời đã trải qua quá nhiều gian khổ, qua nhiều cảnh thăng trầm và đổi thay cũng như các chiến hữu đồng đội của tôi. Người ta gọi là lên voi xuống chó chẳng mấy hồi. Một đời binh nghiệp hai mốt năm bị xuống dốc quá thê thảm và đen tối. Tôi cũng như bao nhiêu đồng đội của tôi đưa đầu vào rọ cho bọn cộng sản đày đoạ trong các trại tù khổ sai để chúng trả thù dã man. Nhờ bị thương tàn phế nên tôi được thả ra sớm hơn, tôi phải  sống ẩn dật rày đây mai đó vì trốn việt cộng, rồi vượt biên an toàn qua tới xứ lạ quê người lập lại cuộc sống mới trên vùng đất tự do.

 

Nhưng lúc bấy giờ tôi cũng không quên những đồng đội của tôi vẫn còn kẹt lại trong tù và lòng vẫn ưu phiền vì chưa quên được nỗi nhục của một Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hùng mạnh nhứt vùng Đông Nam Á Châu mà phải bị bại trận. Hậu quả là cả một miền Nam đã thành một trại tù khổng lồ đưới ách thống trị của bọn cộng sản vô nhân.

 

Tôi luôn ước mong một ngày nào gần đây chế độ cộng sản phi nhân tại quê nhà Việt Nam sẽ không còn tồn tại và sẽ sụp đổ như các nước cộng sản Đông Âu từ khi bức tường Bá linh bị phá hủy vào đêm 9 tháng November năm1989.

 

Tới chừng tuổi nầy tôi không còn mong muốn những ước vọng cao xa, chỉ mong được cuộc sống bình yên để hưởng tuổi an nhàn lúc xế chiều. Tôi chỉ :

 

Mong sức khoẻ thật đủ đầy

Tâm an lạc, sống đời bình thản .

 

 Chiến hữu Nguyễn Minh Châu

 

Trở về trên đầu