Những Ngày Cuối Cùng Đời Binh Nghiệp .
30 tháng
4 năm 1975.
Đây
là ngày mà không ai có thể quên được đến khi nhắm mắt ĺa cơi trần gian
đầy mồ hôi, nước mắt và xương máu, nhứt là với những chiến
binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Trong
phần nầy tôi xin kể lại tâm trạng năo nề vào những ngày cuối cùng của
các chiến sĩ âm thầm trong bóng tối v́ ít được ai để ư tới họ.
Đấy là những chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, và các viên chức
xă ấp cũng như lực lượng CSQG, cán bộ XDNT ( những chiến sĩ áo đen
luôn sống rất gần gủi người dân thôn ấp ), và các chiến sĩ Nhân Dân Tự
Vệ đă hy sinh ở lại cố thủ quận Dĩ An tới giờ phút cuối cùng.
Tôi
xin ghi ơn những người đă tận t́nh giúp nước và cộng tác với tôi trong
nhiều năm qua và xin thành kính tưởng niệm những người đă hy sinh v́ tổ
quốc.
Họ
là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông
Không bao giờ
được hưởng ánh vinh quang
Nhưng
can đảm và tận t́nh giúp nước.
Trở về
mai nhà xưa - Cuộc bàn giao gắp rút và đơn giản v́ t́nh h́nh đất nước
đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Sau khi bị thương
trở nên tàn phế ở Vùng I Chiến thuật rồi được biệt phái qua ngành
Hành chánh, tôi làm việc tại quận Dĩ An đươc gần 7 năm, về Đức
Ḥa hơn 1 năm rồi trở về lại quận Dĩ An đứng một tháng trước
ngày miền Nam bị thất thủ.
Buổi lễ
bàn giao rất đơn giản, không kèn không trống, được tổ chức tại
sân cờ của Bộ chỉ huy Chi Khu. Chủ toạ lễ bàn giao là Đại tá Lưu
Yễm và một viên chức trên tỉnh Biên Hoà cùng xuống tham dự với ông. Tại quận
th́ có Thiếu tá Chi khu phó, ông Phó quận truởng hành chánh, các Xă trưởng, các Phân chi khu
trưởng, các sĩ quan Trưởng Ban của Chi khu, các Trưởng Ban trong Văn pḥng
Hành chánh quận, Chi Cảnh sát và Cán bộ XDNT quận tham dự.
Tôi cũng xin nói
thêm là tôi đă làm việc với ba vị Tỉnh trưởng của Biên Hoà là cựu Trung tá Nguyễn Văn
Hai gốc Nhảy Dù mới về thay thế cố Đại tá Mă Sanh Nhơn cũng gốc
Nhảy Dù đă được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Hậu Nghĩa kiêm
Trung Trung Đoàn trưởng của Sư đoàn 25 Bộ binh. Kế đó là cựu Đại
tá Cựu Đại tá Lâm Quang Chính, cựu Trung Đoàn trưởng của Sư đoàn 18
và sau cùng là cố Đại tá Lưu Yểm về từ Tỉnh Phước Long. Tôi chỉ
gặp ông Lưu Yểm có hai lần khi trở về đây làm việc dưới quyền
ông. Các vị nầy đều có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường nên được
Tư lịnh Quân đoàn III đề cử làm Tỉnh trưởng để bảo toàn
an ninh lănh thổ trong tỉnh.
Hiện nay tại
thành phố San Jose có vài cựu sĩ quan Trưởng Ban của Chi khu và vài vị Xă trưởng
và Phân chi khu trưởng như Thiếu uư Nguyễn Văn Gắn và Cảnh sát quốc gia
đă từng làm việc với tôi rất lâu năm đă qua diện HO. Chúng tôi rất vui
mừng được gặp lại nhau sau những năm tù đày CS và tôi cũng lấy
làm hănh diện là các gia đ́nh của anh em đều được ổn định tốt
đẹp.
Ông Quận trưởng
bàn giao chức vụ lại cho tôi khi trở về Dĩ An lần thứ hai là Trung tá Nguyễn
Thế Thứ, người mà tôi đă bàn giao chức vụ Quận trưởng Dĩ An
cho ông ta hơn một năm trước đây để tôi đi nhận chức Quận
Trưởng Đức Hoà, Hậu Nghĩa.
Lúc nầy tinh thần
tôi bị giao động nhiều v́ t́nh h́nh đất nước hết sức căn thẳng
và tôi cảm thấy vui buồn lẩn lộn. Tôi cảm thấy vui là được gặp
lại cảnh cũ, người xưa mà tôi đă làm việc tại đây gần bảy
năm. Tôi cảm thấy buồn là v́ tôi phải rời bỏ quận Đức Hoà mà tôi
cũng yêu mến và ngược lại họ cũng luyến tiếc sự ra đi của
tôi, mặc dù tôi chỉ làm việc tại đây chỉ hơn một năm. Tôi phải từ
giă vị Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa là cựu Đại tá Tôn Thất Soạn cũng
là cựu Tư lịnh Lữ Đoàn TQLC của tôi trướ
kia. Tôi cũng đă gặp lại vài anh em của Quận Đức Hoà như Cựu Trung
uư Lê Xuân Sang Trưởng pḥng Nhân Dân Tự Vệ của quận, cựu Đại uư Cao Thanh
Vân Trưởng Ban 3 của Chi Khu Đức Hoà và cựu Trung uư Lên Phân Chi khu Trưởng
vv…
Bàn giao chức
vụ xong là tôi bắt tay vào việc ngay v́ tôi đă nắm vững t́nh h́nh lănh thổ của
quận Dĩ An từ lâu rồi. Tất cả mọi đơn vị của Chi khu ráo riết
đặt kế hoạch pḥng thủ chống chiến xa địch. Căn cứ pḥng thủ
của Bộ Chỉ Huy Chi khu là căn cứ cũ của lực lượng Đại
Hàn rất kiên cố, hơn nữa sau Hiệp đinh Paris đầu năm 1973, các đơn
vị Đồng Minh trước khi rút đi đă để lại cho chúng tôi rất nhiều vũ khí
đạn dược và gần 100 cây M72 chống chiến xa, do Đại úy Thành Trưởng
Ban 4 Chi Khu ngoại giao xin giữ lại, nên anh em chúng tôi cũng yên tâm. Trước ngày 30/4/75, Đại
úy Thành có nhắc nhở và đề nghị tôi cho phân phối hết đồ quân tiếp
vụ cho trại gia binh, tôi đă chấp nhận ư kiến sáng suốt nầy, nếu chúng
tôi bị bao vây cũng có lương thực cầm cự được một thời
gian. Cựu Đai úy Thành đă vượt biên sau khi đi tù và gia đ́nh ông nay đang sống
tai San Jose.
Một quyết
định khó khăn.
Tôi phải ở
lại đến giờ phút cuối cùng với anh em chiến sĩ và đồng bào. T́nh
h́nh tại quận c̣n rất yên tịnh, chưa có việc ǵ xảy ra. Chúng tôi chưa bị
quân Cộng sản tấn công và pháo kích, nhưng một số chiến sĩ cũng nao núng
v́ nghe tin chỗ nầy di tản chiến thuật chỗ kia rút quân, người th́ mang gia
đ́nh xuống tàu kẻ xuống ghe đánh cá ra khơi, và một số người đă
được phi cơ Mỹ cho di tản từ phi trường TSN trước đó mấy tuần. Ông bà ngoại
mấy cháu của chúng tôi sợ nguy hiểm đến tánh mạng của mấy cháu nhỏ,
nên mang hết về Saigon
cho tôi rảnh tay lo nhiệm vụ. Vợ tôi th́ nhứt quyết ở lại căn cứ
để yểm trợ tinh thần tôi, nên anh em chiến sĩ và đồng bào c̣n thấy
sự hiện diện của vợ chồng chúng tôi cũng bớt hoang mang và lo lắng.
Một điều
nữa làm cho tôi đắn đo không thể bỏ quận được là v́ trong 7 năm
tôi được sát cánh làm việc ngày đêm với anh em Địa Phương Quân, Nghĩa
Quân, Viên chức quận xă ấp, Cán bộ CDNT và lực lượng CSQG làm việc trong t́nh
thương mến đậm đà. Các cơ quan và đơn vị hết ḷng làm tṛn trọng
trách nên nhiều năm qua t́nh h́nh Dĩ An rất yên tịnh, dân chúng sống thanh b́nh làm ăn
phát đạt. Quân được Dân thương mến và khắng khít thật là t́nh Dân với
Quân như cá với nước. Khi tôi được cấp
trên đổi về lại quận cũ, anh em chiến sĩ vui mừng như gặp lại người anh cả đă vắng mặt đi xa mới
về, và đồng bào cũng vui vẻ đón nhận tôi như một đứa con biệt
ly nay trở về quê cũ, nên tôi xem quận Dĩ An như có mối t́nh thiêng liêng gắn
liền với đời tôi. Tôi hết ḷng cám ơn những chiến sĩ và viên chức,
lực lượng CSQG và cả lực lượng Dân Dân Tự Vệ đă hăng say cộng
tác với tôi trong nhiều năm. Tôi xin nghiêng ḿnh trước những anh linh của những
người trong quận Dĩ An đă hy sinh v́ nhiệm vụ với tổ quốc.
Đến nay,
tôi vẫn c̣n nhớ măi Nghĩa quân Nguyễn Văn Giữ, người cận vệ can đảm
đă theo tôi suốt bao nhiêu năm. V́ lúc ấy tôi đi đứng phải chống gậy
nên ông đă giúp, đỡ đầng tôi trong những lần nhảy trực thăng hay leo
đồi lội suối trong các cuộc hành quân, ông luôn bên cạnh để bảo vệ
tôi. Ông đă chết trong trại cải tạo năm 1979 v́ bạo bịnh mà không có thuốc
chữa. Thỉnh thoảng chúng tôi có gởi qùa về gia đ́nh để đền đáp
công ơn ông đă giúp tôi suốt thời gian tôi làm việc tai Dĩ An.
Trong đời
binh nghiệp của tôi có ba chiến sĩ cận vệ và luôn luôn sát cánh bên tôi trong các trận
mạc nay đă ra người thiên cổ. Ngoài Nghĩa Quân Nguyễn Văn Giữ tôi vẫn
c̣n nhớ và không quên ơn cố Trung sĩ Nguyễn Văn Liễn, trước khi ông tử
trận ở quận Bồng Sơn tỉnh B́nh Đinh ông là Hạ sĩ thuộc toán Biệt
kích của tôi lúc tôi c̣n là Tiểu đoàn Phó Tiểu đoàn 3 TQLC. Ông nầy đă tận t́nh lo cho tôi lúc bị
tôi bị thương nặng nằm bịnh viện Huế và Đà Nẳng. C̣n một chiến
sĩ nữa cũng luôn luôn sát cánh cánh bên tôi ngoài chiến trường là Hạ Sĩ I Nhứt
Hồ, nhân viên truyền tin của tôi đă bị tử trận ở Vùng I Chiến thuật.
Tôi luôn thành kính tưởng niệm và ghi ơn ba chiến sĩ nầy đă giúp tôi rất
nhiều.
Đêm Chờ Sáng Và Cũng Là Đêm
Cuối Cùng Chấm Dứt Đời Binh Nghiệp Của Tôi Đúng 21 Năm.
Tất cả các
chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và Viên chức quận, xă, ấp và CBXDNT
cũng như CSQG trong quận đều tuân lệnh Thượng cấp quyết ở lại
cố thủ. Nhưng đến đêm 29 rạng 30 tháng 4, chúng tôi bị bỏ rơi chới
với v́ mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiểu
Khu tỉnh Biên Ḥa và không biết phải nhận lệnh nơi đâu. Đông Tây Nam Bắc
chẳng c̣n ai yểm trợ, trong khi đó chúng tôi được tin t́nh báo là một Trung đoàn
Cộng sản BV cùng chiến xa T54 đă di chuyển từ hướng Tân Uyên tới rừng
C̣ Mi phía Bắc quận Dĩ An rồi dừng lại đấy. Chiều hôm đó tôi phải
nhờ Pháo binh của Căn cứ TQLC bắn chận mấy trăm quả 105 và 155 ly. Vị chỉ huy căn
cứ Sóng Thần giúp tôi lúc đó là Trung tá Ân và cũng là Chi Huy Trưởng TTHL/TQLC. Vị Sĩ quan trực tiếp
chỉ huy các pháo đội TQLC bắn yểm trợ là Đại uư Minh TQLC, hiện ông Minh đang sống cùng gia đ́nh
tại San Jose.
Chúng tôi tiến
thối lưỡng nan, thôi đành phải liều quyết tử thủ tới đâu hay
đến đó, đành phó mặc số phận cho Trời định.
Thật là một
đêm hăi hùng, hồi họp, tất cả từ quan tới lính súng chống chiến xa, súng
đại liên và súng cá nhân cầm tay, thức sáng đêm chờ địch nơi pḥng tuyến.
Tiếng súng pháo binh và đại bác của chiến xa ta và địch nổ vang dội từ
hướng Hậu Nghĩa và căn cứ Sư đoàn
25 BB tại Củ Chi. Nh́n những ánh sáng hỏa châu chiếu chập chờn nơi cuối
trời ở phương Tây, phương Đông và phương Bắc, và nh́n về hướng
Saigon thấy ánh đèn phi cơ trực thăng lên xuống, chúng tôi đoán là Mỹ đang
tiếp tục bốc người của họ di tản, anh em chúng tôi rất năo ḷng không
biết vận mạng quận Dĩ An nói riêng và vận mạng miền Nam sẽ ra sao? Mong
chờ đến sáng rồi sẽ tính. Nhưng vào gần sáng toán quân thám thính ở tiền
đồn gọi máy báo về Bộ Chỉ Huy Chi Khu là chiến xa địch đă đổi
hướng bọc xa lộ ṿng đai từ hướng Lái Thiêu trực chỉ Saigon.
Gỉă từ vũ khí trong sự
uất hận và tủi nhục.
Quân lịnh buông
súng ră hàng
Xé tan đời
lính, vạn người khổ đau !
( Trích bài thơ Đêm Cuối Cùng của TN)
Sáng hôm sau lúc10 giờ,
tiếng nói Đại Tướng Dương Văn Minh loan báo trên đài phát thanh Saigon ra lệnh tất cả các đơn
vị buông súng đầu hàng. Cái tin sét đánh làm cho mọi người từ quan tới lính, cả trại gia binh và dân chúng đều bàng hoàng rơi lệ.
Tôi liền dùng máy truyền tin thông báo cho các chiến sĩ và viên chức quận, xă, ấp
hủy diệt tất cả tài liệu, hăy rời đơn vị và nhiệm sở với
những lời chúc lành cùng họ và gia đ́nh, và nói vài câu giă từ trong nghẹn ngào uất
hận, không cầm được nước mắt.
Sau đó vợ
chồng chúng tôi và một số anh em chiến sĩ có gia đ́nh tại Thủ Đô rời
căn cứ di chuyển về Sàig̣n, v́ chậm trể sẽ rất nguy hại khi bọn
Việt Cộng địa phương vào chiếm căn cứ. Nhưng sau đó chúng tôi
được tin là đến chiều hôm đó bọn VC mới dám vào Chi Khu.
Toán di tản của chúng tôi gồm có một xe Jeep, trên
xe có tôi, vợ tôi một tài xế và hai cận vệ, Thiếu uư Tâm BCH Chi khu và Đại
uư Vân, Giang đoàn trưởng Giang cảnh sông Đồng Nai, tỉnh Biên hoà. Đại uư
Vân là em vợ của
tôi v́ thương chị
nên ở lại với chúng tôi trong đêm cuối cùng. Trưa ngày 29/4/75 theo lịnh của
Bộ chỉ huy Giang cảnh, Đại uư Vân cho tất cả tàu của Đại đội
Giang cảnh về căn cứ ở Nhà Bè nhưng ông ở lại với chúng tôi từ chiều
ngày ấy. Nếu ông muốn ra khơi để gặp Đệ Thất Hạm đội
th́ quá dễ dàng. Theo sau xe Jeep của tôi c̣n có một chiếc xe GMC và một chiếc Dodge 4x
4 chở các anh em của Bộ chỉ huy Chi Khu đi theo.
Mới ngày nào khi
ra phố quận hay vào xă ấp gặp gỡ đồng bào, anh em chúng tôi lấy làm hănh diện
với dân chúng v́ công cuộc b́nh định lănh thổ được tốt đẹp.
Nhờ những sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ Địa Phương Quân,
Nghĩa Quân và công lao nhọc nhằn của các Viên chức xă ấp, Cán bộ XDNT và lực
lượng CSQG, nên đồng bào Quận Dĩ An được vui hưởng cảnh
thanh b́nh trong nhiều năm qua.
Nhưng sáng hôm
nay, khi chúng tôi đi ngang qua khu phố chợ Dĩ An, đông đảo dân chúng ngậm ngùi
đứng nh́n chúng tôi đi qua, tôi cảm thấy xấu hổ mà muốn độn thổ
v́ nay ḿnh là lính bại trận. Thoáng nh́n nét mặt u buồn của đồng bào tôi biết
là họ đang âm thầm, lặng lẻ tiễn đưa và từ giă chúng tôi ra đi trong
sự nghẹn ngào và thương tiếc! Anh em chiến sĩ chúng tôi buồn lắm ! v́ phải
bỏ họ lại trong t́nh thương và nỗi nhớ.
Ra đến ngả
ba Cây Lơn và Quốc lộ số 1, toán BCH chúng tôi tháp tùng
đoàn quân di tản của các đơn vị thuộc SĐ18, các đơn vị thuộc
căn cứ Long B́nh gồm có Công binh, Pháo binh vv.. kẻ đi xe nguời đi bộ lũ
lượt đi về hướng Gia Định để về Saigon. Đến gần cầu G̣ Dưa xe Jeep của
tôi bị vài tên du kích trong làng bắn một quả B40 nhưng không trúng và rơi nằm ngay
giữa đường lộ trước đầu xe. Chú tài xế tránh quả đạn
và phóng ga chạy nhanh cho ra khỏi tầm mắt mấy thằng du kích nầy. Thật buồn!
và bực tức, tôi chửi thầm : Đồ khốn kiếp! trước đây một
ngày chúng bây thấy bóng dáng anh em chiến sĩ chúng tao là chúng bây chạy chết cha! Bây giờ
theo lịnh cấp trên chúng tao đă buông súng mà chúng bây hành động hèn hạ như thế.
Nếu xe Jeep bị trúng một trái B40 thôi th́ chắc chắn tôi và vợ tôi với vài anh em
bị tiêu mạng.
Trên đường
di tản từ Quốc lộ số 1 về Saigon, tới Gia định chúng tôi gặp thấy
nhiều xác chết của những người chiến sĩ Dù và BĐQ? nằm rải
rác đó đây lẩn lộn cả những thây của dân chúng có cả phụ nữ và trẻ
con. Quang cảnh thật là vô cùng thê thảm. Khi về đến Chợlớn chúng tôi vẫn
c̣n nghe lác đác những tiếng súng nổ ở hướng ngả tư Bảy Hiền
của các anh em chiến sĩ Nhảy Dù có lẽ tức ḿnh rồi
bắn chỉ thiên như có vẻ không bằng ḷng tuân lịnh đầu hàng.
Khi về tới
nhà cha mẹ vợ tôi gần hăng Beer ở Chợlớn, chúng tôi từ giă các chiến sĩ
của Bộ Chỉ Huy Chi Khu Quận Dĩ An để ai về nhà nấy. Các anh em khóc sụt
sùi và hứa hẹn hôm nào sẽ trở lại thăm chúng tôi. Nhưng tôi tự nói trong ḷng
: Than ôi! Nước đă mất rồi, biết ngày mai sẽ ra sao ???
Ngày 30/4/1975 đă chấm dứt đời Binh nghiệp của tôi đúng
21 năm, v́ ngày nhập ngũ cũa tôi cũng vào tháng 4 năm 1954.
Vợ tôi đă
chứng kiến những sự việc đă xăy ra tại quận Dĩ-An vào những ngày
cuối cùng và thấy những thảm cảnh trên đoạn đường di tản về
Sàig̣n nên viết vài ḍng thơ như những lời than thở khi nhớ đến ngày 30
tháng 4 năm 1975 không bao giờ quên./.
Nhớ ngày tháng Tư
Tháng Tư cũng lại trở về
Gợi người viễn xứ vọng về cố hương
Nhớ chăng ngày ấy uất hờn
Lệnh đành
buông súng tan hàng đớn đau .
Nhớ chăng
ngày ấy thảm thương
Anh hùng tuẩn
tiết, giữ tṛn thanh danh
Nhớ chăng
ngày ấy điêu linh
Gia đ́nh tứ
tán, cửa nhà tan hoang
Nhớ chăng
ngày ấy hăi hùng
Dắt d́u chạy
loạn, xác người ngổn ngang
Nhớ chăng
ngày ấy ngậm ngùi
Âm thầm bỏ
xứ, mắt nhoè lệ rơi
Nhớ chăng
người chẳng ra đi
Mang thân tù tội,
lưu đày Bắc phương
Nhớ chăng
khổ nhục anh hùng
Thất thời
lỡ vận, phải đành tan thương
Nhớ chăng
những bậc vợ hiền
Gian truân dầu
dăi, gánh gồng nuôi con
Nhớ chăng
bụng mẹ c̣n mang
Con chưa biết
mặt, thân cha chết tù
C̣n bao cái nhớ
đoạn trường
Nhớ đi, nhớ
lại không ngừng lệ rơi
Bây giờ lạc
măi trời xa
Mấy mươi
năm lẻ, tháng Tư ngậm ngùi ./.
TN -Tháng Tư 2004