Chiến hữu
Nguyễn Minh Châu
Tâm
T́nh Của Một Thế Hệ
( Trích trong Hồi kư Cuộc
Đời Đổi Thay )
“ Kiếp sống là một chuỗi dài sầu tủi.
Vui là bao chỉ luống những ưu phiền “
Vài lời mở đầu :
Những người được sanh ra trong thập niên 30 và
40 dưới thời Pháp thuộc đều bị ảnh hưởng của ba cuộc
chiến.
Trong những năm gần kết thúc đệ nhị Thế
chiến, quân Nhựt Bản đă mang quân qua chiếm đóng toàn cơi Đông Dương Việt,
Miên và Lào. Quân đội Đồng Minh dùng Không lực dội bom vào các căn cứ quân sự
của Nhựt đă gây nhiều thiệt hại cho dân chúng và đồng bào Việt Nam phải
sống trong sự nguy hiểm, lo âu. Những trận không chến hăi hùng giữa đôi bên
làm cho ân chúng rất khiếp sợ. Quân Nhựt làm kinh tế nước nhà bị băng
hoại gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm hàng triệu đồng bào ruột
thịt miền Bằc đă chết thảm thương v́ đói.
Rồi sau khi quân Nhựt đầu hàng năm 1945, bọn Cộng
sản Hồ Chí Minh và bè lũ lợi dụng thời cơ cướp cướp chánh quyền.
Quân đội Anh giúp quân Pháp trở lại Việt Nam và trận giặc Việt Minh lại
bắt đầu kéo dài đến khi Hiệp định Génève được kư kết ngày
20 tháng 7 năm 1954 chia cắt quê hương Việt Nam ra hai miền theo vĩ tuyến 17,
lấy cầu Hiền Lương làm ranh giới Nam Bắc, miền Nam tự do, miền Bắc
Cộng sản độc tài. Trên một triệu đồng bào miền Bắc Vĩ tuyến
phải rời bỏ nơi chôn nhao cắt rún, bỏ ruộng vườn , tài sản và người
thân để chạy trốn loài quỷ đỏ.
Kế đến là chiến tranh chống giặc Cộng sản
miền Bắc, càng ngày càng khóc liệt. Kết cuộc đưa đến thảm trạng
ngày 30 tháng 4 năm 1975, v́ một Đồng minh mà thế giới cho là một thành tŕ chống
Cộng vững mạnh đă bỏ rơi một Quân đội miền Nam can cường phải chống đở sự
đè ép của cả một khối Cộng sản Quốc tế. Hàng triệu chiến
sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị thương vong trong cuộc chiến
huynh đệ tương tàn nầy.
Hậu quả sau khi miền Nam sụp đổ là hàng triệu quân, cán,
chính của chánh quyền miền Nam bị tập trung vào các trại tù lao động khổ sai mà bọn
Cộng sản gọi là đi cải tạo. Người dân bị đánh tư sản để
bọn việt cộng vơ vét tài sản của họ. Hàng triệu người không sống
nổi dưới chế độ do bọn đầu xỏ Cộng sản ngu dốt
cai trị phải trốn quê hương đi t́m vùng đất mới. Đồng bào ta
đă đánh liều mạng sống để đổi lấy hai chữ Tự do, nhưng
họ cũng đă mất mác quá nhiều. Hằng vạn người không bao giờ thấy
được hai chữ Tự do v́ họ đă phải bỏ ḿnh dưới biển sâu
hoặc giữa rừng thiêng nước độc.
Tôi nghĩ rằng những vết thương ḷng nầy rất
khó được phai nhoà và dân tộc Việt Nam , nhứt là những cựu chiến sĩ
của QLVNCH vẫn c̣n đang thở than và rên siết như một thương binh bị
bỏ quên mà vết thương hiện c̣n đang rỉ máu.
* Xă hội thời Pháp thuộc.
Sự nghèo đói và xă hội bất công hồi
thời Pháp thuộc là động cơ thúc đẩy học sinh nghèo dễ nghe lời tuyên
truyền của bọn Việt Minh. Sau khi quân Nhựt đầu hàng năm 1945 tôi được
12 tuổi. Hồ Chí Minh và đồng bọn nắm thời cơ cướp chánh quyền.
Quân đội Anh giúp quân Pháp trở lại Việt Nam. Lực lượng Cộng sản rút hết vào bưng biền bắt đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp. Nhà tôi ở ngoại ô tỉnh Trà Vinh vùng mất an ninh, đêm đêm
bọn du kích Việt Minh thường di chuyển sột sạt bên hè nhà. Đồn của
lính Maroc đóng cách làng tôi ở khoảng gần một cây số. Lâu lâu chúng thấy điều
ǵ nghi ngờ th́ dùng trung liên bắn xối xả vào làng cho nên nhà nào cũng có hầm ẩn
núp, cuộc sống hết sức là nguy hiểm. Người dân đa số rất nghèo v́
sau đệ nhị thế chiến nền kinh tế khó khăn, những nhu cầu như
gạo, đường, sữa, bột ḿ, vải, dầu hỏa vv... thỉnh thoảng được
chánh phủ cấp phiếu để bán rẻ cho dân nghèo, nhưng các con buôn tiêu ḷn bán cho dân
giàu với giá cao hơn. Dân nghèo th́ nghèo thêm v́ sống với vật giá đắc đỏ.
Lúc
mẹ tôi c̣n sống có mua vài mẫu ruộng xa tận trong bưng, lúc nầy t́nh h́nh mất
an ninh chẳng ai dám vào thu lúa. Năm 1946, lợi dụng hoàn cảnh túng thiếu của cha
tôi, một tên cán bộ Việt Minh trước là tá điền tên Đẩu đến móc
nối cha tôi tiếp tế lương thực và thuốc men cho chúng, hắn hứa sẽ
thâu tiền lúa ruộng cho cha tôi. Nếu từ chối th́ sợ chúng buộc tôi cha tôi là Việt
gian v́ tên Đẩu biết lúc trước cha tôi có làm việc cho Tây, bằng không th́ phải
dọn nhà ra tỉnh lỵ mà ở. Nhưng ra tỉnh nhà đâu ở và làm ǵ để sinh
sống. Cha tôi đành phải nhận công tác nầy v́ ít nhứt cũng có thêm được
chút ít tiền để sống qua ngày. Lúc nầy tôi được 13 tuổi, bọn Việt
Minh tuyên truyền chính nghĩa của chúng là giành độc lập cho nước nhà, cứu
đói dân nghèo và sẽ không c̣n bất công xă hội. Có một số bạn học lớp
tôi đă theo bọn chúng vào bưng biền. Những lời tuyên truyền nầy lần hồi
thấm nhuần vào tư tưởng tôi và tôi không ngại hiểm nguy lănh trách nhiệm cha
tôi giao phó.
* Nền Giáo Dục Thời Pháp Thuộc.
Nền
giáo dục thời ấy quá khắc khe, một số ít thầy giáo rất gắt gỏng,
học sinh nghèo ít được thầy cô giúp đỡ bằng học sinh con nhà giàu có, hoặc
cha mẹ có địa vị trong chánh quyền thời Pháp. Lúc thời đó học mỗi
ngày 2 buổi, giờ nghỉ trưa từ 11:30 đến 2 giờ chiều, sống với
bà kế mẫu, gia đ́nh nghèo nên 3 anh em chúng tôi phải vừa làm bài ở trường vừa
làm việc nhà như cưa cây, chẻ củi, đào ao nuôi gà vịt, cho gia súc ăn để
sống qua ngày. Không lúc nào chúng tôi có th́ giờ nghỉ ngơi hoặc tắm rửa trước
khi trở lại trường học buổi chiều. Tôi học lớp Nhứt ở trường
Tiểu học Trà Vinh, một hôm thầy giáo gọi tôi lên trên bục trả bài. Ông ngửi
mùi hôi hám do mồ hôi nhễ nhại thắm với bụi đường v́ đi học
xa giữa nắng hè. Ông đưa tay véo trái tai tôi kéo thật mạnh làm tôi xiểng niểng
và đau điếng rơm rớm nước mắt, nhưng ông cũng chưa tha c̣n sỉ
nhục tôi: “mấy ngày rồi mầy không tắm rửa, mầy hôi quá mặt mầy
vằn vện trông giống như mặt ‘Uất Tŕ’ ” . (Ư nói Uất Tŕ Cung,
một nhân vật trong Thuyết Đường.) Cả lớp cười ồ lên làm tôi
nhục nhă, ḷng câm hờn sôi sục nhưng chẳng dám trách than! Tôi liền nghĩ ra ư tưởng
của tuổi trẻ là chắc tôi phải bỏ học để theo lực lượng
Việt Minh chống lại chế độ ngược đăi dân nghèo như thế nầy.
Nhưng tôi cố gắng chịu đựng để lấy bằng tiểu học xong
để thi vào trung học cho có một ít học vấn v́ tôi mới được 14 tuổi,
nhưng sánh với tuổi học th́ tôi đă quá tuổi của cấp lớp. May mắn tôi đă đậu kỳ thi tuyển vào Petrus Kư và lên Saigon học. Sau cha tôi thấy việc
làm nầy nguy hiểm quá và bịnh lao nặng phải cần lên Saigon chữa trị. Từ đấy gia đ́nh
tôi không c̣n liên lạc với bọn Việt Minh nữa và cuộc đời tuổi ấu
thơ bắt đầu thay đổi từ đây.
Tôi nghĩ rằng có rất nhiều
người sanh ra hồi thập niên 30 sống trong kiếp nghèo thường bị ảnh
hưởng tinh thần có thể gọi là áp lực bởi ba nơi. Ở nhà th́
bị áp lực của gia đ́nh với sự giáo dục quá khắc khe của thời
bấy giờ. Kinh nghiệm bản thân tôi, gia đ́nh nghèo v́ mẹ mất sớm lại sống
với mẹ kế, cha lại bị binh lao nặng nên rất gắt gỏng
hay đánh đập chúng tôi, chúng tôi sợ cha lắm và dường như thiếu
sự triều mến của cha trong khi mất t́nh mẹ. Vào trường th́ gặp ông thầy
cũng gắt gỏng cọc cằn đánh học tṛ tàn bạo, vào lớp thầy gọi
lên trả bài là mặt mài tái mét. Ngoài xă hội th́ bị khinh khi v́ nghèo, bà con xa lánh.
* Đa số thanh niên
của thế hệ chúng ta đều trưởng thành từ quân đội.
Tôi đă ra trung học năm 1953 trong lúc chiến trường đang gay
go ở Điện Biên Phủ, những học sinh nghèo không có khả năng để lên
đại học. Lúc ấy tôi chưa nghĩ đến vấn đề ṭng quân, thời
đó tôi chẳng biết ǵ là chủ nghĩa Cộng sản và Quốc gia v́ ở trường
chỉ có chương tŕnh học mà thôi. Lúc ấy vấn đề tuyên truyền chống
chủ nghĩa Cộng sản không được phổ biến rộng răi nơi học
đường cũng như ngoài quần chúng, sau nầy tôi nhận xét đây là vấn đề
thiếu sót rất trầm trọng.
Trong
khi đầu óc đang quanh quẩn vấn đề t́m nghề học để có cuộc
sống tự túc v́ đang sống với người chị. Tháng Tư năm 1954, tôi nhận
được lệnh tŕnh diện nhập ngũ tại Đệ nhứt Quân khu để
học khóa 5 tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Trong ḷng vừa
lo nhưng vừa mừng là ḿnh sẽ không phải lo lắng cho vấn đề mưu sinh
nữa. Rồi đây tôi sẽ như các bạn học cùng lớp đă t́nh nguyện vào quân
ngũ trước tôi đă ra trường khóa 9 hoặc khóa 10 Vơ Bị Đà Lạt. Tôi sẽ
là một sĩ quan mang cấp bậc Thiếu úy với một gạch vàng chói trên đôi vai,
lúc ấy người dân hay gọi là Quan Một. Tôi sẽ có được một cuộc
sống thoải mái với tiền lương của sĩ quan Quân đội Quốc gia
Việt Nam, tôi sẽ không c̣n là một học sinh nghèo nữa. Nhưng rồi đây cuộc
sống của ḿnh sẽ ra sao? Chắc chắn là sẽ gian nan nguy hiểm nơi chiến
trường không biết sống chết ngày nào. Sự nghĩ ngợi nầy làm tôi nhớ
đến một anh cùng xóm lớn tuổi hơn tôi. Vào năm 1951, anh ấy đă mang hai
gạch vàng trên vai, bị tử trận tại miên Tây. Sự việc nầy làm cho tôi cảm
thấy lo sợ, thôi phó mặc cho số mạng. Nhưng trước mắt tôi sắp có
được một cái nghề để sinh sống.
* Những kỷ niệm của
đời sinh viên sĩ quan.
Quân phục của quân đội
Pháp. Tôi không bao giờ quên bộ đồ treillis của quân đội Pháp vải thật
dầy cộm để tập trận, thường hay có những con rận nằm trong
đáy quần cắn da ngứa ngáy rất khó chịu làm nổi ghẻ lác; thỉnh thoảng
có sự gây gổ giữa 2 người, kẻ nằm giường từng trên và người
nằm từng dưới khó tánh nổi quạu, v́ anh ở trên bị rận cắn găi háng
sột sạt làm cái giường cứ lắt lư hoài anh ở dưới không ngủ
được. Khổ nỗi là khi tŕnh diện sĩ quan cán bộ phải đứng nghiêm,
mà lúc đó những con rận ḅ cắn vào da ngứa quá cũng phải rán chịu không dám
nhúc nhít. Tôi cũng không quên đôi giầy bottes de saut da sần sùi rất cứng đế
có gai, mới mang là bị pḥng chân, đau nhói hai gót chân trên mỗi bước đi, nhưng
cũng cố nghiến răng chịu đau và đi đều bước cho có vẻ oai
vệ với bộ đồ nhà binh mới toanh.
Lần đầu tiên trong đời
mặc bộ quân phục tuy rộng phùng ph́nh và rất nặng nề, nhưng tôi cũng như
các bạn lính mới ṭ te khác nh́n vào tấm gương thấy ḿnh có dáng oai hùng khoái chí lắm.
Tôi nghhĩ rằng cô nữ sinh Gia Long mà tôi thầm để ư sẽ thấy cái vẻ oai
phong của viên sĩ quan tương lai với một gạch
vàng sáng chói tren đôi vai. ( Galon của thời Pháp lúc bấy giờ ). Lúc ấy tôi nghĩ
rằng chắc mấy bạn kia cũng cùng một cảm giác bồi hồi và xúc động
như tôi v́ sự thay đổi cuộc đời từ một học sinh giờ đây
trở thành một người lính sống trong khuôn khổ kỷ luật, v́ ở trường
Thủ Đức có nửa ngày mà tôi đă thấy cái kỷ luật cứng như thép của
nhà binh rồi. Mỗi lần sĩ quan cán bộ đi ngang qua hoặc dừng lại, một
khóa sinh đại diện đứng nghiêm chỉnh hô Fixe. Sau này cơ bản thao diễn
gọi là phắc, tất cả brigade đều nhanh nhẹn đứng nghiêm phăng phắc,
tôi thấy ông Thiếu úy nầy thật là oai vệ.
Buổi chiều chúng tôi được
một Thiếu úy dẫn đến một lớp học tŕnh diện ông Đại úy người
Pháp, ông nầy cho phép chúng tôi ngồi xuống xong ông tự giới thiệu ông là Đại
úy tên ..."tôi không c̣n nhớ" đặc trách về Chiến Tranh Tâm Lư, lúc ấy gọi là Guerre
Psychologique. Viên Đại úy mở lời đón chào chúng tôi và nói: “Tôi
rất hănh diện và hy vọng rằng các anh sẽ là những sĩ quan ưu tú của Quân
Đôi Quốc Gia Việt Nam”.
Ông vào đề ngay giải thích
về chủ nghĩa Cộng sản và chế độ Quốc gia tự do là thế nào.
Tôi không bao giờ quên câu ông nói rằng: “Lối chào của Cộng
sản và của người Quốc gia bộc lộ tâm ư khác nhau của mỗi cách: bọn
Cộng Sản chào với bàn tay nắm lại biểu lộ sự giấu giếm bí ẩn,
người Quốc Gia chúng ta chào với bàn tay mở rộng chứng tỏ con người
của chúng ta thẳng thắn không hiểm độc. Các anh nhớ lại lịch sử
đă cho thấy sau khi CS lật đổ chế độ Nga Hoàng, chúng cho rằng đường
lối của Cộng Sản là công bằng xă hội. Nhưng ngược lại người
dân phải sống lầm than khổ sở mất cả tự do dân chủ. Mấy anh là
những người sẽ chỉ huy binh lính đánh bọn Việt Minh để bảo
vệ nước Việt Nam của mấy anh sống trong tự do no ấm.” Từ đây tôi bắt đầu suy nghĩ: À th́ ra chúng ta cần phải
có một quân đội hùng mạnh để bảo vệ cuộc sống ấm no hạnh
phúc cho người dân, như vậy ḿnh có được một cái nghề rất là vinh
hạnh: một Chiến Sĩ bảo vệ đất nước Việt Nam khỏi ách độc
tài Cộng Sản.
* Món ăn cá tra làm chuẩn.
Cá tra
là loại cá rất rẻ tiền mà ở Mỹ cấm không cho nhập cảng từ Việt
Nam v́ không hạp vệ sinh. Nhà thầu cho ăn
cá tra kho và canh chua cá tra gần như hằng ngày. Loại cá này hôi lắm, những sinh viên
có tiền th́ lên câu lạc bộ, c̣n đám nghèo chúng tôi cũng phải ráng ăn để
lấy sức tập. Nhưng một hai tuần sau ḿnh cũng quen cái mùi khó chịu ấy
đi và ăn cũng ngon lành lắm v́ sau khi tập trận về đói quá !
* Nét đẹp thiên nhiên
của núi rừng Đà Lạt.
Trước
khi măn khóa học, 2 đai đội bộ binh và 1 đại đội vũ khí nặng
được thực tập chiến thuật ở vùng rừng núi gần thị trấn
Dran Đà Lạt, khóa nầy không được ra Đồ Sơn Bắc Việt như
các khóa đàn anh. Đây cũng là dịp chúng tôi được biết cảnh đẹp
thiên nhiên của núi rừng Đà Lạt khí hậu mát mẻ, mấy anh chàng sinh viên sĩ quan
trẻ rất phấn khởi v́ nghe nói ở Đà Lạt các cô gái rất xinh má đỏ
môi hồng. Nhưng những sinh viên nghèo đâu có tiền ra phố Đà Lạt để
du ngoạn cảnh thơ mộng và được nh́n những thiếu nữ duyên dáng mỹ
miều, nhưng cũng được thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên của núi rừng
rất đẹp và thơ mộng.
Một buổi trưa nọ, tổ chúng tôi ba đứa
trách nhiệm phiên gác ven lộ đất đỏ cách các lều trại thực tập một
cây số, đây là vùng rừng núi hẻo lánh. Bỗng xa xa có một phụ nữ mang gùi sau
lưng từ từ đi tới, chúng tôi nghĩ chắc là đồng bào Thượng. Đến
khi người ấy đến gần chúng tôi nhận ra là một cô gái Thượng khoảng
16, mặc xà-rong bằng vải thô, phần ngực trông rất đầy đặn không
có một miếng vải che. Tôi và anh bạn sinh viên tên Cảnh nh́n chầm chập ngớ
ngẩn v́ từ nhỏ tới giờ chưa từng thấy cái nầy, chỉ thấy trên
h́nh vẽ của các họa sĩ vẽ chân dung mà thôi có thấy thật bao giờ đâu,
lúc đó nó và tôi chưa đầy 21 tuổi c̣n độc thân. Nhưng cô ấy vẫn thản
nhiên mỉm cười và nói mấy câu ǵ chúng tôi không hiểu, có lẽ là cô chào hỏi chúng
tôi. Anh Kim Châm, người Việt gốc Miên đă có vợ ba con là Trung sĩ được
đơn vị cho học khóa sĩ quan, trước có đóng quân ở Lâm Đồng nên
rất rành lối ăn mặc của người Thượng. Anh cười nói rằng:
“ Bộ tụi mầy lạ lắm hả? với họ
tốt th́ khoe, xấu th́ che", tao đố tụi mầy thấy được một bà
già thượng nào không bận áo nơi xứ nầy?”.
*Ra trường về
đơn vị.
Chúng
tôi măn khóa học đầu năm 1955 sau Hiệp định Génève được kư vào giữa
năm 1954, đất nước bị chia đôi từ vĩ tuyến 17, miền Bắc
là Cộng sản, miền nam Tự do. Các tân sĩ quan được bổ nhiệm ra các
đơn vị chiến đấu hoặc văn pḥng hay về Trung Tâm Huấn Luyện.
Tôi được sự vụ lệnh về Trung Tâm Huấn Luyện Quán Tre nơi huấn
luyện tân binh, nhưng không làm huấn luyện viên, được làm đại đội
phó ĐĐ-1 của Tiểu đoàn Sắt đặc trách an ninh toàn khu vực. Tiểu Đoàn
nầy gồm có các hạ sĩ quan và binh sĩ của các đơn vị Commandos của
Pháp di tản vô Nam. Sau đó vài tháng đơn vị của tôi được lệnh
hành quân tảo trừ lực lượng B́nh Xuyên tại cầu chữ Y Chợ Lớn, cầu
Tân Thuận, Khánh Hội và ở núi Thị Vải giữa Long Thành và Bà Rịa. Mới ra sĩ
quan c̣n quá trẻ, mấy ông Thượng sĩ già chê các sĩ quan mới ra trường là
Thiếu úy sữa. Lần đầu tiên trong đời lính đụng trận tại cầu
chữ Y rất hồi hộp và sợ hăi v́ thấy lính bị thương máu me lênh láng, người
kêu trời kẻ rên siết. Lúc nầy tôi mới bắt đầu thấy cái chết rất
dễ dàng làm tinh thần tôi giao động mạnh. Tôi bi thương rất nhẹ do mảnh
súng cối 60 ly ở mang tai phải.
* Du học tại Fort Benning Hoa Kỳ.
Tháng
4 năm 1956 có khoảng 100 sĩ quan được Quân đội cho đi du học khóa thứ
nh́ tại Fort Benning Hoa Kỳ. Lúc nầy ít có ai biết tiếng Anh, có cựu Trung úy Mă Sanh
Nhơn và vài sĩ quan phụ trách thông dịch.
Toán chúng tôi khoảng vài chục người
đi bằng hàng không dân sự Pan Of America Airlines đến Phillipines rồi bay tiếp nghỉ
2 đêm tại Hawaii. Lần đầu tiên trong đời được đi du lịch, máy
bay hạ cánh xuống phi trường nằm cạnh bờ biển của thành phố Honululu, Hawaii. Cảnh thật là đẹp,
khí hậu mát mẻ, biển rất xanh với hàng dừa tươi mát trên bờ cát trắng
ngà. Vừa xuống khỏi phi cơ một sĩ quan Mỹ đă đứng sẵn ở
cầu thang đón chào chúng tôi với cung cách rất lịch sự với sĩ quan đồng
minh Việt Nam, mỗi câu nói là Yes Sir.
Ông đưa chúng tôi về khách sạn
Waikiki sang trọng làm ḿnh hơi khớp, v́ trong đời chưa bao giờ bước chân
vào chỗ sang trọng như thế nầỵ Chúng tôi tha hồ du ngoạn cảnh thần
tiên thơ mộng, xem các thiếu nữ Hạ Uy Di với nụ cười duyên dáng mặc
củn lá dừa múa hát dịu dàng theo nhạc điệu dương cầm Hạ Uy Dị
Lúc ấy Hawaii c̣n rất vắng vẻ thanh b́nh không ồn ào náo nhiệt như bây giờ.
Đến
San Francisco
toán chúng tôi di chuyển bằng xe lửa đến tiểu bang Georgia là nơi của
căn cứ Fort Benning. Những ngày trên tàu hỏa vấn đề
ăn uống thật là phiền phức v́ trong toán chẳng có ai biết tiếng Anh để
gọi thức ăn. Mỗi lần đến toa nhà hàng 4 thằng bạn ngồi chung bàn
cứ nh́n quanh quẩn thấy bàn nào có mấy món ăn có vẻ hấp dẫn th́ chỉ ông
bồi bàn “same same here”, ông bồi mỉm cười và mang ra y chang các món ăn giống
bàn đó, nếu may gặp món ăn được c̣n không hạp khẩu cũng ráng nuốt
cho qua cơn đói.
Tôi xin kể ra vài sự việc khôi hài khó quên trong thời gian huấn
luyện ở Fort Benning. Dân Việt Nam ḿnh quen ăn cơm độn, thường mỗi buổi cơm phải
xơi ít nhứt bốn hay năm chén mới no bụng, buổi ăn tại câu lạc bộ
đa số các sĩ quan trẻ Việt Nam lấy một sắp sandwiches ít nhứt 10 miếng
mới đủ dằn bụng. Cho nên mấy anh sĩ quan đồng minh lúc đầu hay
nh́n chúng ḿnh với sự lạ lùng v́ họ chỉ cần một hai miếng là đủ,
c̣n dân Việt Nam nhỏ con sao lại ăn nhiều thế? Bên xứ ḿnh lúc xưa dùng toàn
loại cầu ngồi xỏm, ở đây là căn trại nhà binh nên nơi tiểu tiện
công cộng không được ngăn che riêng rẽ và kín đáo, vài người c̣n mới
không quen loại cầu nầy nên đi không được, cứ ngồi đại chồm
hổm trên bồn cầu đeo lủng lẳng khẩu Colt 12 làm nhiều người nh́n
thấy phải bật cười.
* Mặc cảm khi được về binh chủng thiện chiến/Thủy Quân Lục
chiến.
Từ
Đại đội Bộ binh tác chiến, sau về quân trường rồi đến
Tiểu Đoàn 3/ TQLC tôi hơi khớp v́ mặc cảm sợ anh em đơn vị thiện chiến chê
ḿnh là lính quân trường không biết đánh giặc, nhưng may mắn gặp ông xếp
Tiểu đoàn là cố Đại tá Nguyễn Thế Lương dáng người ốm nhưng
rất nhanh nhẹn và rất kỷ lưỡng trong các cuộc hành quân, là bạn cùng khóa V
Thủ Đức, nên cũng đỡ bỡ ngỡ. Tôi thành thật cám ơn Ông và cựu
Trung tá Nguyễn Hữu Nhơn Tiểu Đoàn Phó cho tôi học lại cách điều quân của
một đơn vị thiện chiến. Hai ông nầy lúc ấy c̣n là Đại úy và đă
có nhiều kinh nghiệm ở các cuộc hành quân b́nh định và hành quân tiêu diệt địch
khắp miền Nam từ Cà Mau đến Bến Hải. Từ
sĩ quan và hạ sĩ quan cán bộ đến binh sĩ Tiểu Đoàn 3 đều có rất
nhiều kinh nghiệm chiến trường chiến đấu rất gan dạ. Vị Đại
Đội trưởng luôn luôn sát cánh bên tôi trong các trận mạc lúc tôi làm Tiểu Đoàn
Phó Tiểu Đoàn 3 là cựu Trung tá Lê Bá B́nh, lúc đó là Trung úy Đại Đội Trưởng
Đại Đội 2. Sau khi tôi rời Binh chủng ông ấy lên chức vụ Tiểu Đoàn
Phó rồi đến Tiểu Đoàn Trưởng và được biết trong các trận
đánh ở cầu Đông Hà đơn vị của ông đă tiêu diệt rất nhiều
chiến xa T54 của địch.
Tôi vẫn c̣n nhớ và thương tiếc hai vị
sĩ quan rất gần gũi tôi đă hy sinh lúc c̣n quá trẻ là cựu Trung úy Long, Trung đội
trưởng Đại Đội 4 đă tử trận ở Ba Dừa Bến Tre năm
1964, ông bị trúng một viên đạn AK 47 ngay má trái xuyên qua ót và ngă quỵ trên người
tôi, khi tôi bế ông. Trung úy Long c̣n trân trối nh́n tôi một cách tức tưởi; và cựu
Đại úy Vũ Mạnh Hùng, Đại đội trưởng đă anh dũng hy sinh ở
cầu B́nh Lợi trong trận tấn công một Tiểu Đoàn Việt Cộng kỳ Mậu
Thân đợt hai. Ông bị một viên đạn oan nghiệt kết liễu đời ông
một cách đột ngột không một lời trăn trối.
Tôi cũng thương
nhớ một số các hạ sĩ quan và binh sĩ của Tiểu Đoàn 3 chiến đấu
rất gan dạ đă anh dũng hy sinh nơi trận mạc khắp bốn vùng chiến thuật.
Tôi rất bùi ngùi thương tiếc Hạ sĩ nhứt Liễng sau lên Trung sĩ đă tử
trận ở miền Trung. Ông là người đă theo chăm nuôi săn sóc lúc tôi nằm mê
man trên giường bịnh ở quân y viện Đồn Mang Cá Huế, không có một người
than bên cạnh v́ lúc ấy vợ tôi sắp gần ngày sanh cháu gái út kông thể bay ra thăm
tôi được.
* Có phải đức tin thắng số?
Sợi dây
thẻ bài và cái túi vải lúc nào cũng được đeo vào người tôi, trong túi có
tượng Đức Mẹ Maria của chị tôi thỉnh nơi nhà thờ Fatima, tượng
Phật do vợ tôi thỉnh ở chùa và một nanh heo rừng rất quí của Thượng
sĩ Dương Khuol tặng tôi. Thượng sĩ Khuol sau lên Trung úy, chiến đấu
rất gan dạ, ông đă đụng nhiều trận sanh tử mà chưa bao giờ bị
thương. Điều nầy làm cho tôi có sự tự tin nên tôi xem túi vải nầy như
vật bất ly thân.
Tôi thường nghe nói khi một người gần chết sẽ
cảm thấy lạnh từ đôi chân lên tới trên rồi sẽ đi. Tôi nói thầm :
Em và các con ơi ! chắc anh chết mất .
V́ bị thương quá nặng máu ra lênh
láng đôi chân tôi bắt đầu lạnh, trong khi Bác Sĩ Chẩn đang băng bó tôi chợt
nhớ sợi dây thẻ bài để đầu nằm, liền nhờ ông lấy mang vào
người tôi và cùng lúc ấy tôi cầu nguyện mẹ tôi cứu độ tôi qua cơn
nguy biến.
Sau khi dây thẻ bài được mang vào người và với vài câu khấn
vái tự nhiên tôi thấy toàn thân ấm trở lại. Có phải những điều nầy
giúp tôi có đức tin vượt qua cơn khó khăn chăng?
Tôi xin cám ơn Bác Sĩ
Chẩn đă cứu sống tôi, tôi nghe nói anh đă qua Mỹ rồi mà tôi t́m măi đến
nay vẫn chưa được tin tức ǵ về anh. Nếu anh có đọc được
bài viết nầy xin cho biết tin tức về anh và gia đ́nh. Tôi rất mong tin anh.
* Những bước chân Thủy Quân Lục Chiến
trên khắp các nẻo đường quê hương.
Quê hương
Việt Nam nghèo nhưng cảnh rất đẹp. Là đơn vị tổng trừ bị
nên TQLC hành quân
khắp bốn vùng chiến thuật, ở đâu có chủ lực quân địch xuất
hiện là TQLC
sẽ tới đó để tiêu diệt. Mặc dù đời lính chiến rất nhọc
nhằn vất vả đầy hiểm nguy nhưng chúng tôi được dịp đi qua
nhiều vùng và được nh́n thấy nhiều cảnh rất đẹp của quê hương,
phải viết cả một quyển sách mới có thể tả hết được,
đây tôi chỉ nói qua những địa danh đặc biệt đă in dấu chân của
TQLC/VN.
Miền Nam có nhiều ruộng đồng và vườn
cây ăn trái xanh bát ngát, có nhiều sông ng̣i, đặc biệt ḍng Cửu Long giang nước
chảy mênh mông. Di chuyển trên tàu đổ bộ hành quân trở về từ vùng hẻo
lánh của tỉnh lỵ Mỹ Tho và Bến Tre, ngấm nh́n từ những mái nhà tranh nằm
san sát dưới những hàng dừa cao dọc theo những con sông nhỏ tỏa những
cụm khói xám bay nhẹ nhàng trong ánh nắng chiều vàng rất đẹp; hay những buổi
sáng có ghe thuyền tấp nập buôn bán nhộn nhịp trong cảnh thanh b́nh giả tạo,
v́ người dân ở đây có thấy đâu những trận đánh đẫm máu giữa
đơn vị ta và địch quần thảo nhau trong vùng bưng biền hẻo lánh.
Miền
Trung như Bồng Sơn có con sông Lại chảy dài bên cạnh thị trấn nho nhỏ
rất dễ thương có chiếc cầu xinh xinh. Tam Quan có ngôi làng xinh xắn của dân
chài lưới nằm ẩn dưới những rừng dừa cao chạy dài theo băi cát trắng.
Quảng Ngăi có sông Trà Khúc khá rộng lớn nước rất trong, với những xa nước
trông rất thơ mộng, có núi Thiên Ấn v́ đỉnh núi bằng phẳng ở xa nh́n giống
như ấn trời. Quảng Nam có Ḥn Non Nước, trong hang động có thạch nhũ,
ngoài có loại đá nhiều màu sắc các nhà điêu khắc làm các thứ h́nh tượng
bán cho du khách. Các vùng vừa kể trên có rất nhiều đồi núi nhưng ít sông ng̣i và
có tục danh là “non bất cao thủy bất thâm....” Mùa hè chúng ta có thể lội
bộ ngang qua những con sông rộng lớn. Nơi những địa danh nầy các Tiểu
Đoàn TQLC đă
làm cho Sư Đoàn 3 Sao vàng Bắc Việt phải kinh sợ và biết đến danh Thủy
Quân Lục Chiến VN.
Đặc biệt những vùng nầy
có rất nhiều đồi sim trái ngọt dịu và hoa sim màu tím rất đẹp, nên khi
đóng quân nơi đây binh sĩ có máu văn nghệ hay hát bài Những Đồi Hoa Sim làm
anh em chiến sĩ cũng tạm quên đi nỗi nhọc nhằn, vất vả của
chiến trường. Mỗi lần hành quân qua những đồi sim tôi thường hay
ngắt những cánh hoa dim tím ép vào bản đồ hành quân để về tặng vợ
tôi. Có khi tôi nh́n những cánh hoa sim ép khô mà nghĩ không biết những đóa hoa sim nầy
có về đến tay vợ ḿnh không? Hay là cũng trở về “trong ḥm gỗ trên phủ
lá quốc kỳ?” Chắc các bạn cũng có lúc có những ư nghĩ nầy.
Tôi cũng c̣n nhớ và tội nghiệp
cho một Đại uư TQLC Mỹ OJT ( On the job of training) đă tử
thương v́ mảnh đạn súng 82 ly của CS trúng ngay đầu, nón sắt của ông
bị bể tung và ông chết ngay bên cạnh tôi.
Mấy lần đơn vị được
nghỉ quân ở Huế các bạn được dịp thưởng thức cảnh đẹp
của ḍng sông Hương nước chảy lờ đờ qua bến đ̣ Vỹ Dạ,
qua Thành Nội, qua cầu Trường Tiền có từng đoàn nữ sinh áo dài trắng với
nón lá bài thơ dập d́u sau giờ tan học. Sông Hương c̣n nằm giữa 2 thắng
cảnh đẹp bên kia là núi Ngự B́nh, bên nây bờ sông có chùa Thiên Mụ xinh xắn và cổ
kính.
Quảng Trị có sông Thạch Hăn hai bên bờ có hàng cây xanh mát. Năm 1972, cũng
đă từng chứng kiến những trận đánh kinh hoàng giữa ta và địch. Trên
đường ra Đông Hà Gio Linh chúng ta được dịp viếng nhà thờ La Vang điêu
tàn nơi Đức Mẹ đă hiện ra. Một lần chúng tôi lái xe Jeep đến gần
cầu Hiền Lương để quan sát, tôi có cảm nghĩ chiếc cầu nầy có
cái tên rất là hiền hậu, nhưng nh́n qua bên kia vĩ tuyến có cái cảm giác hăi hùng
của cuộc sống dưới chế độ độc tài khát máu của bọn CS.
Thật là trái ngược với mỹ ư của người đặt tên cho chiếc cầu
nầy.
* Luyến tiếc khi phải rời Tiểu Đoàn
3 Thủy Quân Lục Chiến.
Tháng 9 năm 1966, TĐ3 thuộc
chiến đoàn B/TQLC hành quân vùng Ashau, căn cứ của Sư Đoàn 10 Bắc Việt mới xâm nhập
là vùng núi non hiểm trở, dưới sự chỉ huy của cựu Đại Tá Hoàng Tích
Thông là cấp chỉ huy nhiều kinh nghiệm và trầm tĩnh nơi chiến trường.
Tôi là Tiểu Đoàn Phó cho cựu Đại tá Nguyễn Năng Bảo, vị Tiểu Đoàn
Trưởng đă có nhiều chiến công, rất hiền cười nhiều hơn nói.
Sau hai tuần quần thảo với địch, Chiến đoàn chấm dứt hành quân và
rút về đóng quân gần quận Cam Lộ, tôi bị thương v́ đạn pháo làm liệt
bán thân phải. Đây là lần thứ hai tôi bị thương ở binh chủng TQLC.
Bắt đầu từ đây, tôi không c̣n được hân hạnh tiếp
tục chiến đấu bên cạnh các chiến sĩ của đơn vị mà tôi yêu mến,
đă cùng nhau chia sẻ những nỗi vui buồn, đă từng vào sanh ra tử ở khắp
bốn vùng chiến thuật.
* Những chiến sĩ âm thầm ngày đêm bảo vệ xă ấp: Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân, Viên chức xă ấp và Cán bộ XDNT.
Sau
một năm dưỡng bịnh tôi được bổ nhiệm làm Quận Trưởng
Dĩ An. Về đây tôi vẫn tiếp tục chiến đấu nhưng với cuộc
chiến nhỏ bé bên cạnh các chiến sĩ ĐPQ và NQ. Họ là những chiến sĩ
âm thầm cùng các Viên chức xă ấp và Cán bộ XDNT, ngày đêm có nhiệm vụ bảo vệ
an ninh và phát triển cuộc sống cho người dân trong thôn xóm. Họ không được
trang bị đầy đủ vũ khí, quân trang, quân dụng tối tân như những chiến
sĩ đàn anh thiện chiến, và cũng ít được báo chí hay truyền thanh truyền
h́nh nhắc tới, nhưng họ cũng là những chiến sĩ rất can cường
trong những trận chạm trán với lực lượng Việt Cộng địa phương
và trong những cuộc hành quân triệt hạ hạ từng cơ sở của chúng.
Cuộc
sống của họ rất nghèo, vất vả với đồng lương ít oi, con cái
của họ ăn không no mặc không ấm nhưng họ vẫn vui vẻ hăng say làm
tṛn nhiệm vụ bảo vệ cuộc sống ấm no cho dân làng. Nhà của họ là những
gầm cầu hay những connex trong đồn bót nơi mà họ phải canh gác ngày đêm.
Mạng sống vợ con họ cũng rất nguy hiểm v́ địch luôn ŕnh rập tấn
công họ bất cứ lúc nào. Tại đây tôi cũng bị thương một lần rất
nặng, hiên nay viên đạn c̣n trong phổi. Đây là lần thứ tư tôi bị thương
trong đời binh nghiệp.
Đến
năm 1970, tất cả hạ từng cơ sở và lực lượng địa phương
Việt Cộng đều bị tiêu diệt, dân chúng sống vui vẻ thanh b́nh và làm ăn
phát đạt. Các sĩ quan, hạ sĩ quan , binh sĩ Địa Phương Quân và các Nghĩa
Quân viên được tưởng thưởng rất nhiều Anh dũng bội tinh. Các
sĩ quan và hạ sĩ quan Bộ Chỉ Huy Chi Khu đều phục vụ tích cực, Đại
úy Hậu Trưởng ban 2 rất giỏi về t́nh báo đă từ trần trong trại cải
tạo miền Bắc. Đại úy Vơ và Đại úy Liểng Trưởng Ban 3 trước
và sau, cũng đă giúp tôi rất nhiều trong vấn đề thảo kế hoạch hành
quân, hiện nay 2 ông đă qua Mỹ theo diện HO sau khi bị đày ở miền Bắc.
Đầu
năm 1974, tôi được chuyển về quận Đức Ḥa cũng chiến đấu
bên cạnh các chiến sĩ Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, làm việc với vị
chỉ huy cũ ở Thủy Quân Lục Chiến là cựu Đại tá Tôn Thất Soạn
đă về làm Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa. Tiểu Đoàn Địa Phương
Quân lập nhiều công trạng ở Quận Đức Ḥa là Tiểu Đoàn 337/ĐPQ
được chỉ huy bởi cựu Thiếu tá Phúc, sau nầy là Thiếu Tá Tôn Thất
Trân về từ Binh chủng TQLC. Chiến đấu rất dũng cảm và lập rất nhiều
chiến công, gây nhiều tổn thất nặng nề cho các Tiểu Đoàn Việt Cộng
xâm nhập từ phía bên kia sông Vàm Cỏ Đông.
Giữa năm 1974, 1 Trung Đội
Việt Cộng và 1 Trung đội đặc công của chúng định đánh úp 1 Đại
Đội của Tiểu Đoàn 337/ ĐPQ có nhiệm vụ giữ cầu An Hạ giữa
quận Đức Ḥa và Bến Lức, Long An, nhưng bị thảm bại rất là năng
nề, nhiều xác địch và vũ khí đă bị bọn chúng bỏ lại rải rác
quanh đồn. Tôi được biết Thiếu Tá Trân và Thiếu Tá Phúc Tiểu Đoàn
Trưởng tiền nhiệm sau đă về Tiểu Đoàn khác, đă tử trận vào những
ngày cuối cùng. Thiếu Tá Trân đă anh hùng kháng cự bọn bộ đội Cộng Sản
BV nên bị chúng giết và thủ tiêu mất xác. Tôi kính cẩn nghiêng ḿnh chào 2 vị sĩ
quan nầy, đă anh dũng bỏ ḿnh vào giờ phút cuối cùng trước ngày Miền Nam
bị thất thủ. Tôi cũng rất thương tiếc các chiến sĩ Địa
Phương Quân, Nghĩa Quân và viên chức từng cộng tác với tôi đă bỏ ḿnh v́
nghĩa vụ.
*
Một sự trả thù dă man - bị đày từ Long Giao đến Suối Máu rồi ra
Yên Bái.
Sau ngày 30
tháng 4 năm 1975 tất cả là một sự đổi đời bi thảm, thành phần
ṇng cốt của chánh quyền miền Nam đều bị tập trung gọi là đi cải
tạo. Xin ghi vài gịng thơ đơn giản nói lên ḷng căm thù của các bà vợ khi
chồng bị lừa vào các trại tù khổ sai.
Căm
Thù
Anh
th́ cỏi Bắc phường lao lư
Em chốn quê nhà quá khổ đau
Con thơ than thở
thương ba lắm
Biết đến bao giờ mới gặp nhau
Căm lũ Cộng
gian ngoa xảo trá
Gạt mọi người nhưng chẳng có ta
Mưu gian trá bây đừng
có gạt
Thả mọi người đúng tháng đi qua
Hôm nay đă mấy trăng tṛn
lẻ
Thả đâu ra mà đă lưu đày
Cộng sản ơi! bây quân lừa đảo
Để
anh hùng vào rọ thế kia
Nhưng tưởng bây cũng người quân tử
Chứ
đâu ngờ một lũ súc sanh
Trách anh sao chẳng nghe phân giải
Để hôm nay Cộng
sản phỉnh lừa
Làm sao cứu anh ra chốn ấy
Để khỏi đau ḷng
xót dạ đây.
TN
Trước
tiên bọn Cộng Sản đưa chúng tôi về Long Giao rồi Suối Máu để thanh
lọc trước khi đày ra miền Bắc. Những dăy nhà chúng tôi ở đa số là
cấp Trung Tá cách khu các Đại Tá khoảng 300 thước. Sự việc đầu tiên
làm tôi vô cùng xúc động là thấy cựu Đại Tá Soạn, vị chỉ huy mà tôi hằng
quí mến mới đây ông là một Đại Tá tỉnh trưởng Hậu Nghĩa uy nghi
và đă từng là chiến đoàn trưởng Thủy Quân Lục Chiến của tôi nay thật
là anh hùng lỡ vận. Nh́n thấy ông mặc bộ kaki ngắn rách lao động vác củi
tôi không khỏi bùi ngùi thương cảm. Cùng chung cấp bực với ông c̣n có các cựu
Đại tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn TQLC, niên trưởng Nguyễn Thế Lương và Nguyễn Năng Bảo là 2 vị cựu
Tiểu Đoàn Trưởng của tôi trước kia, và cả niên trưởng Thông.
Những
sĩ quan giữ chức vụ quan trọng bị đày ra Bắc, cấp Đại tá và
Tướng lănh đi bằng máy bay nhưng đều bị c̣ng tay. Chúng tôi bị bọn
bộ đội CS đưa xuống tàu hải quân nhốt chen chúc đến ngộp thở
dưới hầm chở ra bến tàu phía Bắc vĩ tuyến 17 rồi từ đó lại
bị nhét chật ních vào các toa chở hàng hóa bằng sắt trên xe lửa đến Yên Bái.
Một số anh em bị chết ngạt trên đường di chuyển v́ không chịu nổi
sức nóng như đun của các toa sắt giữa nắng hè miền Bắc, Trung tá Nhiều
trưởng pḥng 4 Sư Đoàn TQLC đă uống thuốc tự sát trên tàu thủy
trên đường đến Hải Pḥng.
Trên đường ra Yên Bái ngồi chen
chúc mấy ngày đêm trong toa sắt, các anh em thay phiên nhau đến ngồi gần song cửa
nhỏ để lấy không khí thở, mặc dù khốn khổ cũng ṭ ṃ nh́n xem cảnh
sống của dân miền Bắc như thế nào và cảnh vật của quê hương
ḿnh ra sao từ phía bên kia vĩ tuyến 17. Các anh quê ở miền Bắc có chỉ cho chúng
tôi biết vài địa danh với cảnh đẹp nh́n thấy được lúc ban ngày.
Qua đèo Ngang cảnh ngoạn mục làm tôi nhớ câu thơ “Bước đến Đèo
Ngang bóng xế tà, cỏ cây chen đá lá chen hoa....”; đến Vinh chiếc tàu hỏa vượt
qua chiếc cầu sắt xinh xinh giữa 2 ngọn núi xanh. Khi vào thành phố Hà Nội, đoàn
tàu hỏa vượt qua cầu Long Biên bắt ngang con sông Hồng nước đỏ, rộng
mênh mông trông rất hùng vĩ. Đoàn tàu hỏa dừng lại ở ga Hàng Cỏ, chúng tôi được
dịp nh́n cảnh thành phố Hà Nội trông rất cổ kính nhưng cũ kỹ và dơ
bẩn. Lúc ấy tôi nghĩ rằng miền Bắc cảnh cũng rất đẹp mà mấy
mươi năm nay bị bọn Cộng sản cai trị thật là uổng công tạo
hóa đă cho quê hương ta nhiều cảnh đẹp thiên nhiên.
H́nh ảnh của
những thiếu nữ tha thướt với những chiếc áo dài hoặc áo đầm
không có ǵ là lạ với tầm mắt của mọi người trước 30/4/75. Nhưng
trong lúc xe ngừng tại ga Hàng Cỏ, chúng tôi ngồi chen chúc trong toa sắt, ḿnh trần nổi
đầy ghẻ v́ gần 8 ngày không tắm rửa, mồ hôi nhễ nhại thắm ướt
cả quần đùi. Trong cảnh tù đày bỗng thấy một phụ nữ người
da trắng mặc chiếc áo đầm sang trọng bước ngang đường sắt
xe lửa, ai cũng nhào tới nh́n, ḷng tôi cảm thấy tủi nhục v́ ḿnh như đang
bị đày ải dưới địa ngục c̣n nàng da trắng kia như là một tiên
nữ giáng trần, ḷng càng buồn tủi và càng căm thù bọn CS mang rợ thêm nữa.
Chúng tôi đến trại tù Yên Bái tháng 6
năm 1976, đây là vùng rừng sâu nước độc trước kia bọn Cộng Sản
đă từng giam giữ tù binh Pháp. Trại tù của chúng tôi là những dăy nhà tranh vách bằng
tre đan do tù tự xây cất để ở, nằm trên 2 ngọn đồi thoai thoải,
chung quanh núi non trùng trùng điệp điệp, cảnh rất buồn làm tâm trạng của
tù càng buồn thêm, v́ xa vợ con, v́ bị lưu đày quá khổ sở, lao động khổ
sai nhọc nhằn mà bụng th́ đói triền miên. Tôi không bao giờ quên cảnh trăng
rằm tháng Bảy và trời mưa đầu tiên ở Yên Bái, buồn thật buồn! Mưa
tháng Bảy thường gọi là mưa Ngâu làm tôi nhớ đến chuyện huyền thoại
Ngưu Lang và Chức Nữ, rồi nghĩ đến ngày về thật là thời gian dài
vô tận..... Cảnh rất đẹp vào những đêm trăng sáng nhưng sao quá buồn.
Dưới chân đồi của trại tù có con suối nhỏ nước chảy róc rách
quanh năm, nước phản chiếu ánh trăng lốm đốm như những con cá
bạc tự do lội tung tăng theo ḍng suối trông thật là đẹp. Tôi nghĩ rằng
vợ con tôi nơi quê nhà cũng đang ngắm ánh trăng nầy và ḷng cũng buồn
năo nề như chúng tôi.
Ngắm Trăng Nhớ
Về Yên Bái
Hôm nay
tháng Bảy ngày rằm
Chim ô bắt nhịp,
Chức Ngưu trùng phùng
Trên trời lấp lánh trăng sao
Như muôn ngọn nến chúc
câu tao phùng
Riêng ta sao vẫn một ḿnh
Nh́n trăng ta ngắm, nh́n sao ta buồn
Buồn
cho vận nước đảo điên
Để cho lũ Cộng đọa đày thế
gian
Buồn cho anh ở lao tù
Tấm thân bi đọa, cơm th́ thiếu ăn
Trăng
ơi trăng hởi là trăng
Xin dừng nơi đó, để ta ngắm nàng
Ngắm
nàng ta cũng giải khuây...
Nh́n nàng ta cũng vơi ḷng nhớ nhung
Trăng soi rọi
sáng khắp nơi
Rọi dùm chốn ấy chồng ta đở buồn .
TN -1976
* Chứng kiến cảnh đau ḷng tại con suối nhỏ.
Nhưng
cũng nơi suối nầy tôi đă chứng kiến một cảnh rất đau ḷng là
một buổi sáng trời mùa đông lạnh buốt với mưa phùn ướt át, hai Trung
Tá trước phục vụ tai trường Bộ binh Thủ Đức (xin tạm giấu
tên), gánh một thúng phân để tưới rau trên đồi bên kia ḍng suối. Khi qua đến
giữa cầu khỉ bị trơn trợt té xuống suối phân văng tung tóe, hai ông vội
vă chạy ngược ḍng suối để tẩy sạch phân lấm đầy người
ḿnh rung v́ lạnh, tôi nh́n thấy thật là tội nghiệp đến rưng nước
mắt.
Tôi chỉ biết than
thầm cảnh lao tù CS của chúng ta sao mà khổ thế! Và cũng tại nơi suối
nầy vào một buổi trưa tôi được ông Thiếu tá Q.., người có trách nhiệm
nuôi heo cho bộ đội, cho tôi nửa chén cháo heo. Tôi và ông ngồi ăn lén bọn bộ
đội bên bờ suối vắng vẻ, cháo gạo lức trộn với cám mùi thơm
ngon nóng hổi, đang cơn đói triền miên ăn vào cảm thấy thật ngon. Một
ngày nọ con heo mẹ sanh ra 8 con heo con nhưng v́ trời mùa Đông tiết lạnh nên bầy
heo con chết hết. Ông Q... báo cáo cho tên trưởng trại, sáng hôm sau tên nầy ra lệnh
cho nấu hết bầy heo con chết cho heo mẹ ăn, ông chỉ mổ bụng lấy
ruột ném đi rồi bỏ hết vào chảo nấu cho nhừ thịt. Chảo cháo thịt
bay mùi thơm phức làm bao tử ḿnh càng thấy đói thêm, nhưng mấy heo con đă śnh
rồi tôi không dám xin ăn. Ông ấy đă ăn lén lúc nào tôi không biết, nhưng ông có khoe
với tôi là ông đă xơi một chén cháo thịt heo đă quá. Ngày hôm sau ông bị đau bụng,
nôn mửa và tiêu chảy trầm trọng tưởng ông phải chết v́ bị trúng độc
mà không dám nói ra là ông đă ăn cháo heo.
* Người buồn cảnh có vui đâu
bao giờ.
Rừng
đêm âm u nơi trại tù Yên Bái mà ánh trăng rằm sáng hiện lên giống như cái đèn
lồng treo lơ lửng trên đỉnh núi thật là ngoạn mục, nhưng ḷng th́ buồn
tê tái! nên có câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh
quá đẹp và nên thơ nên tôi có nói với một anh bạn tù rằng cảnh trăng ở
đây đẹp quá, anh ấy nổi cáu và trả lời: mầy thấy đẹp th́ mầy
ở đây luôn đi. Nghe anh ấy bảo mầy ở đây luôn đi làm tôi ớn xương
sống v́ sợ lời nói xui xẻo nầy khiến ḿnh ở lại luôn là đời tàn.
Nhưng tôi không giận anh ấy v́ tôi hiểu anh cũng như tôi đang nhớ nhà, nhớ
vợ, nhớ con cũng đang đau khổ ở miền Nam không biết chừng nào chồng
cha sẽ trở về sum họp với gia đ́nh.
Lúc ấy tôi nghĩ rằng
ánh trăng nầy đang soi sáng các trại tù miền Bắc, trại tù miền Nam và cũng
soi sáng cả vùng trời tự do Âu Mỹ, nơi ấy những người di tản chắc
cũng buồn v́ xa xứ nhưng họ hạnh phúc hơn chúng tôi là hưởng được
cái không khí tự do và nhân quyền của con người, trong khi chúng tôi đang trong cảnh
lao tù, thật là: Nhứt nhựt tại tù bằng thiên thu tại ngoại, nhưng tôi lại
nghĩ: Một ngày tù với cộng sản bằng trăm cái thiên thu.
* Dă tâm của bọn Cộng sản.
Sau 3 năm ở ngoài Bắc,
bọn CS thả những người tù già yếu bệnh tật trong đó có tôi mà bọn
chúng nghĩ có về th́ cũng chết thôi. Về nhà mừng vui được sum hợp
gia ́h nhưng không khí rất là ngộp thở v́ những tên công an khu vực tới nhà xét bất
cứ lúc nào. Sau 2 tháng bọn Việt Cộng địa phương đến bắt tôi
lại, chúng nó cho tôi vài phút chuẩn bị đồ đạt, nh́n mặt chúng lộ vẻ
đằng đằng sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi để trả thù, tôi quyết
định dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn
chúng vùi xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Trước sự
giằng co dữ dội của vợ con tôi cùng sự chứng kiến của người
xung quanh, vợ con tôi quyết định liều đem tôi ra xe chở đi bệnh viện.
Trước sự phẫn nộ của vợ con tôi mà chúng đành đóng kịch trước
dân chúng và theo đuổi vợ con tôi sau đó. Sau 4 ngày đêm tôi tỉnh lại, trốn khỏi
nhà thương Nguyễn Văn Học và sống ẩn náu trong sự khủng hoảng hơn
một năm trời mới vượt biên được. Tôi được biết một
số sĩ quan về cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại, không biết
số phận ra sao?
* Thuyền nhân tỵ nạn.
Lần thứ nh́ vào cuối năm 1979, tôi
qua Mỹ với tư cách là thuyền nhân tỵ nạn từ Thái Lan đi bằng máy bay Charter,
họ cho ăn đồ fast food chớ đâu được ăn uống sang trọng như
hồi thuở đi du học bằng máy bay du lịch. Khi chiếc charter đáp xuống phi
trường Oakland tất cả tỵ nạn phải được khám sức khỏe
trước khi cho về nhà của bảo trợ. Một cô y tá Mỹ nh́n hồ sơ của
tôi và thấy tôi chống gậy cô ấy lắc đầu làm tôi nghĩ chắc cô nầy
thấy tôi bị tàn phế nên thương hại, cô hỏi tôi: “ông có đi làm được
không?” Tôi biết ngay là chắc mụ đầm nầy nghĩ ḿnh qua đây rồi sẽ
ăn bám mới hỏi câu nầy. Tôi nổi cáu trả lời: “Ở Việt Nam tôi c̣n
đánh giặc được, qua đây làm cái ǵ mà chẳng được!”
Cô
ấy trả lời: “I do believe you”. Gia đ́nh Mỹ bảo trợ tôi ở tại
thành phố Monterey. Rất may mắn sau 2 tuần cơ quan tiếp giúp tôi định cư
chịu mướn tôi làm Resettlement counselor.
Thật ra 2 năm sau cùng ở trung học,
lúc đó c̣n chương tŕnh Pháp mỗi tuần chỉ có 1 giờ Anh ngữ th́ vốn liếng
Anh văn có là bao nhiêu, mặc dù lúc làm việc trong quân đội với cố vấn Mỹ
ḿnh nói ít họ cũng rang hiểu thôi. Qua tới đây mới thấy Anh ngữ của ḿnh
quá kém, phát âm bậy bạ chẳng đúng giọng, nói chuyện họ cứ what? và what? Nhận
thực được hiện t́nh, tôi hết sức cố gắng trao dồi thêm như
đọc sách báo, nghe truyền h́nh và nhờ làm việc tiếp xúc với người Mỹ
nên vốn Anh ngữ ngày càng khá hơn.
* Lúc tuổi trẻ chống giặc Cộng
Sản đến tuổi già phải chống lại bệnh tật.
Lúc
c̣n đi làm mỗi ngày đưa vợ tôi đến bệnh viện làm việc rồi mới
tới sở làm của tôi. Ngày ngày tôi đều nh́n thấy những người ngồi
xe lăn chạy quanh bệnh viện thật là tội nghiệp. Có khi tôi nghĩ rằng nếu
ḿnh lâm vào cảnh sống như thế nầy th́ khổ lắm. Tôi tuy chống gậy vẫn
c̣n hơn họ nhiều.
Tưởng rằng sau khi về hưu tôi sẽ hưởng
được an nhàn với tuổi chiều xế bóng, sống đời thảnh thơi,
nào ngờ lại bị stroke tuy không nặng lắm, nhưng làm ảnh hưởng vết
thương cũ nơi xương sống nên đă hơn năm năm nay vẫn phải
ngồi xe lăn. Lắm lúc cũng buồn và chán nản, nhưng ngoài sự thương yêu
lo lắng của vợ con c̣n có các Niên trưởng, các Chiến hữu và bạn bè thường
xuyên thăm hỏi và an ủi. Có lần bà cựu Tư Lệnh cũng không ngại đường
xa lên thăm và an ủi làm chúng tôi tưởng nhớ và thương tiếc Cánh chim đầu
đàn mà chúng tôi luôn kính mến đă sớm bay đi về miền miên viễn. Tôi xin thành
thật cám ơn quư vị đă cho tôi những an ủi tinh thần rất quư báu giúp cho tôi
chóng lành bệnh. T́nh huynh đệ chi binh trong Binh chủng thật là quư hóa.
Kết
cuộc tôi nhận thấy lúc c̣n trai trẻ chúng ta lo chống giặc Cộng Sản, không
bao giờ vui hưởng được cuộc sống an b́nh, hơn nữa chúng ta là lính
chiến trường th́ mấy khi hưởng được cái hạnh phúc sum hợp êm
ấm bên vợ con. Bây giờ đến tuổi già phải chống lại bệnh tật
xảy đến cho chúng ḿnh.
Viết bài nầy ḷng tôi cảm thấy xao xuyến và
thương tiếc những chiến sĩ cùng đơn vị đă hy sinh cho tổ quốc
thân yêu và cũng luyến nhớ nhiều kỷ niệm khó quên trong đời lính cùng chung
trong một đơn vị chiến đấu, hoặc làm việc chung trong một cơ
quan.
Xin
thân mến chúc các niên trưởng và chiến hữu sức khỏe tốt để hưởng
tuổi về hưu thật an nhàn hạnh phúc. Dưới đây là những ḍng thơ
than thở của vợ tôi muốn nói lên một ước mơ được trở về
thăm quê hương trong cảnh thanh b́nh và thật sự được tự do, dân hủ.
Trả Ta Sông Núi
Sông
sâu nước chảy muôn đời
Tuổi
người Trời đă đinh rồi thời gian
Từ khi non nước điêu tàn
Mang
thân lưu xứ ḷng man mác buồn
Thu,
Đông cây lá thay màu
Ḷng
sầu non nước muôn đời không phai
Gẫm
đi gẫm lạị tháng ngày
Trông
mong chim én mang về mùa Xuân
Buồn
thay tuổi đă xế chiều
Chẳng
ai đ̣i lại Núi Sông cho ḿnh
Bây
giờ vẫn đợi vẫn trông
Trả ta Sông Núi ước mơ cuối
đời.
TN