Home
Loi Gioi Thieu & Hinh-anh & Trang hoi-ky
Thoi Tho Au
Tam Tinh Mot The He
Tam The Bai
Nhung Ngay Cuoi Cung Doi Binh Ngiep
Nguoi Tu Ve Tu Yen Bai
Thuyen Nhan Ty Nan Thailand
Tren Vung Dat Hua
30 Years After Vietnam : A Reunion

Người Tù Về Từ Yên Bái

( Trích trong hồi kư Cuộc Đời Đổi Thay )

Đoạn đường xuôi Nam.

Sau một năm bị giam cầm trong Nam và hai năm ở miền Bắc, bọn CS thả những người tù già yếu và bệnh tật trong đó có tôi mà bọn chúng thấy không c̣n lao động đươc nữa và bọn chúng nghĩ rằng có thả về nhà chúng tôi cũng sắp chết thôi.

 

Trước khi được thả về bọn bộ đội ban chỉ huy trại tù Yên Bái trả lại quần áo mà chúng tôi mang theo lúc tŕnh diện để học tập “ ba tháng “ theo thông cáo. Tôi lấy bộ đồ mà tôi đă mặc đi tŕnh diện ở G̣ Vấp mặc thử xem ra sao. Khi vừa mặc chiếc quần tây vào th́ cái quần bị tuột xuống tới chân làm cho tôi sững sờ v́ không ngờ tôi ốm tới thế nầy. Trong mấy năm tù có nh́n thân ḿnh trong kiến soi bao giờ mà biết được cái độ gầy ốm của thân người ḿnh ra sao? mặt mày của ḿnh như thế nào? Mấy năm đầu bọn cộng sản không cho gia đ́nh thăm nuôi và tiếp tế lương thực nên anh em tù bị đói tả tơi, có người không chịu nổi cái đói đến kiệt sức mà chết.

 

Những người mập mạp lại càng tiều tuỵ hơn chúng tôi và càng dễ chết do thiếu dinh dưởng. Hôm ngày tập trung về Đoàn để chuẩn bị về Nam, một cựu Đại uư LLĐB đến chào hỏi tôi mà tôi không thể nh́n ra ông ấy là ai. Ông ấy bèn nói rằng : Anh Năm

( Colonel ) không nhận ra em sao? em là Đại uư M… mập đây. Lúc bấy giờ tôi mới nhớ ra ông, v́ ngày xưa ông rất mập và bụng to đến đổi khi ông ngồi lái xe Jeep là cái bụng bệ vệ và nặng nề của ông đụng tới cái volant xe Jeep. Ông ta bèn dở áo lên cho tôi xem lớp da bụng có nhiều miếng da xếp lại không khác nào cây đàn Accordéon. Gương mặt tṛn trịa của ông ta bị hóp lại trong thật năo nề.

 

 Mọi người tù đều ốm yếu như nhau nên tôi cũng không nhận định được thân người của tôi nó gầy ṛm như thế nào?. Khi đến đón tôi được thả về tại cổng thành Ông Năm G̣ Vấp, vợ tôi chỉ nh́n ra tôi nhờ tôi chống gậy đi khập khểnh.

 

Trong toán đầu được thả ra là những sĩ quan thuộc ngành chuyên môn như hành chánh hay kỷ thuật. Trong toán nầy có một anh Thiếu tá nghành Quân nhu, khi vùa tới cổng trại

anh nh́n thấy bà vợ đang chăm chú nh́n tám người tù đi ra mà không nhận dạng được chồng bà. Anh ấy bèn lên tiếng : Em ! anh là T..đây. Bà vợ nh́n chồng quá t́u tuỵ và xúc động đến ngă quỵ. Anh Thiếu tá cũng khóc sụt sùi nức nở nên bị giữ lại cho trở vào trại để lên lớp cùng với chúng tôi đang mong chờ đợi phiên về kế tiếp.

 

Tên quản giáo nói rằng : đảng và nhà nước với chánh sách khoan hồng đă nuôi các anh ăn học rất chu đáo để trở thành công dân tốt, chứ nhà nước đâu có hành hạ mấy anh đâu tại sao các anh lại tủi thân mà khóc với vợ con ? Tôi bực ḿnh và nói thầm : Chúng tao đâu có chém trâu đốt nhà như loài cộng sản chúng mầy mà được bây giáo dục để trở thành công dân tốt ?  Nghe mấy câu nói nhàm tai nầy tôi càng tức sôi gan và tôi nghĩ rằng chắc quư vị cũng rất bực ḿnh nghe tôi kể lại câu chuyện nầy.

 

Bọn cộng sản thả những người trong toán chúng tôi làm năm đợt, mỗi đợt tám người và cách nhau một tuần lễ. Cứ sáng thứ ngày thứ năm trong tuần là anh em hồi họp chờ dợi tên cán ngố đến gọi tên ḿnh và dẫn ra cổng trại. Sống với bọn nầy lúc nào cũng hoang mang và đầu óc luôn luôn bị can thẳng !

 

Một cựu Trung tá Pḥng Nh́, lúc bấy giờ đă bảy mươi hai tuổi c̣n bị giữ lại với tôi sau khi toán cuối cùng đă được về hai tuần qua rồi. Điều nầy làm cho ông và tôi rất đắn đo v́ tên thủ trưởng trại chẳng cho biết lư do tại sao ? mà chúng tôi cũng chẳng dám hỏi. Ông ấy tự suy đoán và nói với tôi rằng : Có lẽ tôi là nhơn viên pḥng nh́ c̣n cậu làm quận trưởng lâu năm, chắc chúng ḿnh thuộc thành phần nhiều tội ác ôn ( đây danh từ của bọn cộng sản gán ghép cho những người của chế độ miền Nam ) . Thật là nhứt đầu với lối khủng bố tinh thần của lũ cộng sản.

 

Về đến nhà tôi nh́n vào kiến thấy người tôi chỉ c̣n da bọc xương, hai xương vai và xương sườn nhô ra, đưa bộ ngưc oméga sâu hỏm, mặt mày xanh xao như tào là chuối trông giống như người mắc bịnh Aids Disease mà bên Việt Nam gọi là bịnh Sida. Đứa con trai út của tôi tám tuổi hỏi mẹ nó sao ba bây giờ không giống ba mấy năm trước

vậy ? Tôi buồn muốn rơi nước mắt v́ tủi thân và nghĩ rằng không biết tôi có thể khoẻ mạnh lại như xưa không ? Khi đi tŕnh diện tôi cân nặng 65 kư, bây giờ chỉ c̣n 40 kư. Tôi không biết rằng có được hồi phục sức khoẻ để nuôi bản thân tôi và lo cho gia đ́nh nổi không ? v́ biết rằng tôi phải lao động cày cuốc theo chánh sách của bọn chúng khi được thả về với gia đ́nh.

 

Lần nầy chúng tôi được chở về Nam bằng xe lửa từ Yên Bái đến Vinh , rồi từ Vinh đi bằng xe đ̣ trong Nam ra đón chở thẳng về thành ông Năm, quận Hóc Môn. Trên đoạn đường về Nam chúng tôi được di chuyển như hành khách hạn rẻ tiền nhưng thoải mái hơn lần bị chở ra Bắc bằng tàu Sông Hương từ bến Tân cảng Sàig̣n đến Vinh, rồi từ Vinh đi xe lửa ra Yên Bái trong điều kiện quá khổ sở v́ chúng tôi bị nhốt như súc vật. 

 

Trên đoạn đường từ phía Nam cầu Hiền Lương ngay vĩ tuyến 17, về tới Saigon, tôi được nh́n thấy lại những cảnh vật và địa danh mà đơn vị TQLC chúng tôi đă hành quân qua trong những năm chinh chiến và không khỏi ngậm ngùi khi thấy và nhớ lại những mặt trận chạy dài theo Quốc lộ số 1 mà anh em chiến sĩ cùng tôi đă một thời tung hoành, oanh liệt và đă cùng sống chết bên nhau trong các trận đánh đẫm máu với quân cộng sản Bắc Việt. Lúc bấy giờ tôi thật xúc động và buồn lắm ! C̣n một điều nữa làm cho tôi rất buồn và luyến tiếc là quê hương ḿnh rất đẹp mà để quân cộng sản vào gây chiến tranh tàn khóc và gây biết bao cảnh đổ nát điêu tàn, biết bao gia đ́nh phải điêu linh.

 

Đến thành phố Huế, hai anh bộ đội cho chúng tôi xuống xe để ăn trưa. Đồng bào hay tin tù cảo tạo được về Nam từ các trại tù miền Bắc đă đổ xô tới bao vây chúng tôi. Các bà cụ già và các phụ nữ nh́n thấy chúng tôi mặt mày xanh xao hốc hác, bơ phờ và ốm gầy nên động ḷng khóc nức nở. Chúng tôi bị cấm không cho tiếp xúc với đồng bào, nhưng khi nh́n qua ánh mắt của mấy bà tôi hiểu là các bà rất thương cảm chúng tôi và họ h́nh dung bóng dáng chồng con của họ cũng tiêu điều như chúng tôi vậy, nên họ mủi ḷng không cầm được nước mắt. Có một bà cụ chửi khe khẻ rằng : đồ quân khốn nạn ! chúng bay đày đoạ mấy người cải tạo ra nong nỗi nầy !

 

Anh em chúng tôi chia ra từng toán vào các quán ăn cạnh nhau trên một đường phố. Các người chủ quán đều không tính tiền và c̣n cho uống beer và nước ngọt thật ngon lành v́ mấy năm nay đâu được có những thứ nầy.

 

Ngồi trên xe đ̣ đi tiếp về Saigon, chúng tôi nghe các anh lơ và tài xế chữi xỏ chữi móc chế độ cộng sản thậm tệ bất cần hai anh bộ đội đi theo chúng tôi. Nhưng lúc ấy tinh thần chúng tôi bị sa sút sau mấy năm trong tù luôn bị đe doạ, bị khủng bố và hoang mang thành ra nhút nhát nên nghe ho chữi rũa anh em chúng tôi cũng ngại lắm. Một anh bạn tù cắt ngang những lời trách oán của anh lơ xe và hỏi anh lơ rằng : Lúc nầy nước nhà được giải phóng và được thống nhứt chắc là đồng bào ḿnh có cuộc sống ấm no lắm phải không? Tôi nghĩ là anh bạn tù nầy muốn hỏi để cho anh lơ ấy không chữi nữa v́ sợ ảnh hưởng không tốt cho anh ta, chứ chúng tôi cũng biết dân miền Bắc khổ và đói rách lắm dưới sự cai trị của bọn bạo tàn cộng sản đă mấy mươi năm, làm ǵ mà dân Nam có sung sướng được. Nhưng anh lơ lại nói thêm : Giải phóng cái con mẹ ǵ, giải phóng là phỏng đó mấy ông ơi !. Dân khổ chết cha đi mấy ông, muốn mua gạo ăn phải tŕnh hộ khẫu và đăng kư, mua thứ ǵ cũng không có để mà xài, vật giá leo thang và đồng tiền rẻ mạc v́ bị mất giá.

 

Xe đ̣ chở chúng tôi đi qua thành phố Saigon đến G̣ Vấp rồi từ từ vào thành Ông Năm là trại giam sĩ quan cấp uư. Tôi rất ngậm ngùi khi thấy quan cảnh tiêu điều và buồn tẽ của Thủ đô Sàig̣n không phải như trước năm 1975 mà lúc xưa được gọi là ḥn ngọc Viễn đông .  

 

Khi chúng tôi vừa mới tới thành Ông Năm, tên thủ trưởng trại chịu trách nhiệm toán chúng tôi nói rằng : Các anh học tập tốt được cách mạng cho về đây ăn học tiếp. Tôi nói thầm : Tốt chỗ nào? Lao động khổ sai đói rét muốn bỏ mạng mà gọi là học tập, bọn chúng mầy lúc nào cũng nói láo. Đầu óc chúng tôi rất hoang mang không biết c̣n phải ở tù thêm bao lâu nữa ? hay lại chuyện ǵ sẽ xảy ra đây?, trong khi tên trưởng trại tù Yên Bái đă nói rằng chúng tôi được về sớm v́ lư do già yếu, bịnh nặng gần chết và tàn phế vv… Thật là chánh sách của đảng dạy bọn chúng mầy là nói láo, nói lao từ trên xuống dưới và nói láo từ nơi nầy đến nơi khác.

 

Trước khi chúng tôi được về có anh Trung tá H…, tuỳ viên quân sự của toà Đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại nước ngoài và một số tù cải tạo ở chung trại 1Yên Bái với tôi được chúng bảo chuẩn bị hành trang để được thả về. Nhưng một thời gian sau đó anh em đi vào rừng gặp lại anh H… đang lao động với anh em của trại khác. Một anh tù đă hỏi

rằng : sao anh H… c̣n ở đây? Chưa về với gia đ́nh sao? Anh H… khe khẻ chữi thề : đồ bọn nói láo, mấy anh đừng có tin chúng nó. Câu chuyện nầy làm tôi càng hoang mang lắm mặc dù đă về trong Nam rồi, nhưng tôi nghĩ rằng dù sao đi nữa về đây ở tù thêm cũng được gần gia đ́nh và khí hậu ấm áp hơn.

Nỗi lo âu và tinh thần bị khủng hoản khi về với gia đ́nh.

Về nhà mừng vui được sum hợp gia đ́nh nhưng không khí rất là ngộp thở v́ những tên công an khu vực tới nhà xét bất cứ lúc nào. Lúc bấy giờ những tù cải tạo khi được thả về gia đ́nh phải tŕnh diện mỗi tuần hoặc hai tuần hoặc mỗi tháng một lần tuỳ ư của bọn công an địa phương. Vợ tôi phải đi báo cáo nhay cho công an khu vực khi vừa về tới nhà. Ngày hôm sau tôi phải tŕnh diện đồn quân trấn Thủ Đức và sau đó mỗi tuần một lần. Tên công an trưởng đồn quân trấn lúc trước là anh thợ vá vỏ xe đạp tại chợ Thủ Đức. Tôi không bao giờ có ư chê bai hay khi dễ những người ít học. Tôi rất thông cảm hoàn cảnh sống nghèo khổ của mỗi người, nhưng tôi rất bực ḿnh thái độ đă vô học lại c̣n vô giáo dục với bản chất hèn hạ và nhỏ mọn của quân cộng sản như lũ chém trâu đốt nhà và ăn hại đồng bào.

Mỗi lần tôi tŕnh diện, tên nầy luôn luôn có cái bản mặt mày hằn học với tôi lắm, v́ theo giấy ra trại hắn biết tôi trước năm 1975 là Quận trưởng Dĩ An, Biên Hoà. C̣n tên công an khu vực cứ mỗi ngày đến kiểm soát tôi và hắn nói rằng : tôi tới thăm anh Châu khoẻ không? và tiến bộ ra sao sau khi cách mạng nuôi ăn học một thời gian. Tôi tức căm hờn với những câu nói nầy v́ bị bọn cộng sản chúng nó đày đoạ gần chết mà nói ăn học cái

ǵ ?. Chúng tôi đă nhiều lần nghe những lời nói y rập một khuôn của bè lũ nầy từ lúc vào Long Giao đến trại  Suối màu rồi ra Yên Bái. Tên công an khu vực thường đến nhà đúng lúc vợ tôi đi chợ về là hắn lục lạo vào giỏ đi chợ xem vợ tôi đă mua thứ ǵ để theo dơi hằng ngày ḿnh ăn món ǵ, nhưng hắn nói trớ là xem vợ tôi có mua đủ thức ăn cho tôi bồi dưởng không, theo ngôn ngữ của bọn cộng sản.

Trong thời gian tôi làm việc tại quận Dĩ An, anh em chiến sĩ địa phương chúng tôi đă không ngại gian khổ hành quân ngày đêm nên tiêu diệt gần hết thành phần hạ từng cơ sở trong quận. Vài tên c̣n lại phải bỏ vùng hoạt động và ẩn náo giũa hai liên ranh Dĩ An và Tân Uyên. Cho nên sau hai tháng được miền Bắc thả về bọn việt cộng địa phương đến bắt tôi lại để trả thù, nhưng chúng nói là tôi được công an tỉnh Sông Bé và Biên Hoà mời tôi lên đó làm việc với chúng trong 10 ngày. Chúng nó cho tôi mười phút chuẩn bị đồ đạt và thuốc men đủ dùng trong hai tuần lễ. Nh́n mặt chúng lộ vẻ đằng đằng sát khí nên tôi nghĩ chúng sẽ giết tôi để trả thù hay sẽ làm nhục tôi trước dân chúng tại quận Dĩ An nơi tôi làm việc trước kia, cũng như chúng đă bắt vài sĩ quan trong bộ chỉ huy Chi khu của tôi đi quét đường và làm vệ sinh quanh khu phố.

Tôi quyết định dùng thuốc tự sát thà chết tại nhà với vợ con hơn là bị bọn chúng làm nhục trước công chúng. Tôi đoán chắc rằng bọn nó sẽ giết tôi và vùi xác nơi nào đó mà vợ con không hề biết được. Tôi bèn mở tủ thuốc lấy một ống Optalidon mang vào pḥng tắm v́ không muốn cho hai con gái lớn của tôi thấy và uống gần hết ống thuốc. Sau đó vài phút tôi bắt đầu xây xẩm mặt mày và biết chắc chắn rằng tôi sẽ chết. Không c̣n sợ chi nữa và rất bực tức, tôi trở ra pḥng trước chữi bọn chúng dữ dội và nói rằng chánh sách của bọn chúng bây là nói láo, đừng ḥng mà bắt tao lại để trả thù. Ngay lúc đó vợ tôi đi vắng nhà vừa về và tôi chỉ c̣n nói được ú ớ vài tiếng rồi ngă vào ṿng tay của vợ tôi rồi ngất liệm luôn.

Sau khi tỉnh lại, tôi được vợ tôi thuật rằng chúng muốn chở tôi đến bịnh viện Sông Bé để bọn chúng lo. Vợ tôi đoán rằng bọn cộng sản sẽ giết tôi nên nhứt quyết không cho chúng chở đi. Trước sự giằng co dữ dội của vợ con tôi cùng sự chứng kiến của người cùng xóm, bọn việt cộng đành để vợ con tôi đem tôi ra xe chở vào bịnh viện Nguyễn Văn Học và theo đuổi vợ tôi sau đó.

Tôi đă may mắn được người cháu là Bác sĩ Nguyễn Xuân Tùng đang là BS trực tận t́nh cứu sống trong khi đó tên BS cộng sản trưởng khu cấp cứu nói rằng : anh nầy đă chết rồi, anh Tùng không cần chạy chữa nữa. Tên BS việt cộng ra lịnh cho y tá rút ống dưởng khí ra, nhưng vợ tôi và BS Tùng mạnh dạng kháng cự lại. Thật rơ ràng là bọn chúng muốn giết tôi chết. Tên nầy và bè lũ quả thật dă man, tàn ác. Trong thời gian nầy vợ tôi vất vả vô cùng v́ sợ chúng giết tôi nên mỗi đêm phải nằm túc trực tại hành lang pḥng hồi sinh để theo dơi và canh chừng tôi.

Sau ba ngày đêm nằm nơi pḥng hồi sinh tôi tỉnh lại và t́m mọi lư do nằm thêm môt hai tuần nữa v́ c̣n yếu sức để nghĩ ra mưu kế trốn thoát khỏi bệnh viện v́ vợ chồng chúng tôi được bà BS M…và cô y tá A…, bạn học cũ Gia Long với vợ tôi, đă mật báo cho vợ tôi biết là mỗi buổi sáng khi bàn giao phiên trực tên BS thủ trưởng đều lưu ư tất cả nhân viên là hăy coi chừng và theo dơi một tên Trung tá nguỵ đang nằm chữa bịnh. Tôi đă biết là chúng nó sẽ bắt tôi tại bịnh viện.

Lúc bấy giờ tôi cũng được hay tin có một số sĩ quan về cùng lúc với tôi cũng bị bọn CS bắt lại, không biết số phận của các ông ấy ra sao?

Những phút giây hồi họp.

Vào một buổi sáng bà BS M… mật báo cho vợ tôi biết là tên Thủ trưởng sẽ ra lịnh cho tôi xuất viện lúc 4 giờ chiều ngày mai. Vợ chồng chúng tôi hiểu ngay là bọn chúng sắp đặt âm mưu để bắt tôi lại khi tôi ra khỏi cửa nhà thương. Vợ chồng chúng quyết định phải trốn khỏi bịnh viện vào lúc sáng sớm ngày hôm sau.

 

Thấy t́nh h́nh nguy kịch, chị cả của tôi là một Soeur của nhà ḍng Vinh Sơn và cũng là y tá trưởng của Khoa Nhi đồng đang làm việc tại đây đă cùng vợ tôi đến gặp vị linh mục của nhà thờ nằm ngay phía sau của bịnh viện Nguyễn Văn Học để cầu cứu. Chị tôi kể sự việc của tôi đă xảy ra cho linh mục nghe và nói rằng : Bọn việt cộng sẽ bắt em tôi lại tại bịnh viện nầy vào chiều ngày mai, vậy nhờ Cha cho chúng con dẫn em con đi qua cửa sau này để tẩu thoát, nếu  không sẽ nguy cho tánh mang của em tôi lắm. Linh mục được biết hoàn cảnh nguy hiểm của tôi liền chấp nhận và nói rằng : sáng mai từ lúc 5 giờ Cha sẽ chờ và sằn sàng mở cửa sau khi các con tới. Chị tôi nay đă trên tám mươi và đă về hưu, c̣n vị linh mục đă cứu giúp tôi không rơ c̣n sống hay không ?

 

Lúc bấy giờ tôi c̣n quá yếu, mặc dù bà chị và vợ tôi d́u hai bên giúp tôi đi cho nhanh nhưng tôi lê lết từ bước chân đi âm thầm, chậm răi và thật hồi họp dưới ánh đèn lờ mờ vào khoảng gần 5 giờ sáng, lúc bịnh nhân c̣n ngủ nên không ai hay biết. Vừa đến cửa sau th́ linh mục nhanh tay mở cửa ngay cho chúng tôi đi qua. Sau khi chúng tôi vào pḥng khách của nhà ḍng vợ tôi lập tức gọi xe Taxi chở thẳng về nhà ông bà ngoại của mấy cháu tại Chợlớn.

 

Thế là một lần nữa tôi được thoát khỏi gông cùm cộng sản trong gang tất. Tôi không quên ơn cháu BS Tùng hiện đang hành nghề tại thành phố Winnibeg, Canada đă cứu sống tôi. Cám ơn bà BS M…và bà y tá A…đă mật báo cho vợ chồng tôi biết trước những âm mưu của cộng sản trong lúc tôi đang nằm điều trị. Những ơn nghĩa lớn lao nầy chúng tôi c̣n mang măi trong ḷng đến trọn đời.

 

Vừa về tới nhà cha mẹ vợ ở đường Trần Hoàng Quân th́ cháu gái lớn của chúng tôi xuống nhà báo cho biết là bọn công an đồn quân trấn Thủ Đức đến bao vây và xét nhà để t́m tôi. Bọn chúng hỏi cháu rằng tôi đă ra khỏi bịnh viện rồi, bây giờ ở đâu? Cháu đă được vợ tôi căn dặn trước là tôi sẽ bỏ trốn nhà thương nên cháu trả lời là không hay biết ǵ, v́ hai tuần nay phải ở nhà trông nôm các em nhỏ. Tên công an trưởng ra lịnh cho con tôi là sáng ngày hôm sau phải ra tŕnh diện đồn quân trấn Thủ Đức.

 

Chúng tôi dư biết rằng bọn man rợ sẽ bắt giam con gái tôi để điều tra nên chúng tôi bảo sáu đứa nhỏ phải lén trốn khỏi nhà ở Thủ Đức mà về ẩn náo tạm nơi nhà bà chị tôi ở Gia định một tuần và sau đó về tạm trú tại nhà bà Trung tá Tiểng cựu Tỉnh trưởng Bammethuột tại cư xá Kiến Thiết. Con gái lớn chúng tôi lúc đó mới được mười bốn tuổi cùng cháu Nguyễn Kim Trang ái nữ của cựu Trung tá Tiểng giúp đở phải dẫn dắt năm em nhỏ  âm thầm chạy trốn trong lúc trời c̣n mờ sương chưa sáng . Chú Thiếm Châu c̣n nhớ ơn của cháu Trang đă không ngại nguy hiểm để lo cho mấy em được an toàn. Chúng tôi cũng không quên ơn bà Trung tá Tiểng đă nuôi  nấng 6 đứa con tôi một thời gian trong khi vợ chồng chúng tôi ẩn trốn. Sau đó các con tôi mới trở về sông với ông bà Ngoại đến ngày vợ tôi tổ chức vượt biên. 

 

Tôi ngẫm nghĩ lại chế độ tự do của miền Nam chúng ta quá rộng lượng và quảng đại. Trong thời gian tôi làm Quận trưởng, từ cơ quan chánh quyền đến quân đội, chúng tôi không  bao giờ khuấy nhiểu hay hành hạ thể xác hoặc tinh thần của gia đ́nh bọn việt cộng địa phương đang nằm trong ḷng bàn tay  quyền lực của chúng tôi. Nếu thế cờ quốc tế đăo ngược lại, miền Nam thắng và chế độ cộng sản sụp đổ, chúng ta sẽ đối xử chúng với khí thế quân tử của đại trượng phu. Miền Bắc sẽ không phải là một trại tù khổng lồ như miền Nam sau 30 tháng 4 năm 1975. Bọn cộng sản chúng nó thật là quân hèn hạ và vô liêm sĩ.

 

Tôi c̣n nhớ trong thời gian tôi làm Quận trưởng Dĩ An, có một bà vợ bé của tên tướng Việt cộng Đào Sơn Tây được chúng tôi để sống rất b́nh yên trước bộ chỉ huy quận của chúng tôi. Tướng Đào Sơn Tây nầy trước kia là công nhân cả sở Hoả xa tại Dĩ An hồi thời Pháp thuộc.

 

Những ngày tháng buồn năo nề trên gác trọ.

 

Sau khi trốn ra khỏi nhà thương, tôi tuyệt đối không tiếp xúc với bất cứ ai ngoài vợ tôi. Mỗi chiều tối vợ tôi phải lén lúc đến nơi tôi sống ẩn dật để tiếp tế. Trong người tôi chỉ có tờ giấy ra trại và giấy chứng nhận tŕnh diện của đồn công an Thủ Đức mà bây đă vô dụng rồi. Tôi phải dùng tờ giấy Chứng cử tri của em trai kế tôi. Nhờ trên h́nh của tờ giấy rất thô sơ không có đóng mộc, thành thử tôi chỉ thay tấm h́nh của tôi vào mà xài mỗi khi di chuyển hay đổi chỗ ở. Mỗi lần đi vượt biên cũng xài giấy công nhân giả do bạn tôi chứng nhận tôi đi công tác sửa chữa máy đèn. Bây giờ nhớ lại cũng buồn cười là tôi chẳng  có biết chút kinh nghiệm ǵ về việc sửa chửa máy đèn hay máy phát điện. Nhưng cũng nhờ bọn công an ngu ngốc không biết hạch hỏi tôi hoặc là nếu chúng nó nhờ tôi sửa máy đèn th́ tôi chẳng biết ǵ và sẽ bi lộ tẩy ngay là tôi xài giấy tờ giả mạo.

Trong hoàn cảnh tôi tù vượt ngục ai cũng rất ngại ngùng sợ bị mang hoạ cho gia đ́nh họ nếu tôi bị phát giác và bị chúng nó bắt lại. Sau hơn sáu tháng sống rày đây mai đó rồi tôi cũng liều mạng cứ trụ lại một chỗ tương đối kín đáo tại cư xá Lữ gia, Phú Thọ. Người chủ nhà là một sĩ quan cấp bực chuẩn uư bà con dám chứa chấp tôi ở luôn. Nhưng mỗi khi nghe tin công an sẽ xét nhà tôi lập tức dời đi nơi khác. Có một lần ông chủ nhà toa rập với bọn việt cộng giữ kho sơn tẩu táng một số sơn bột và cất giấu trong nhà ông ta. Nhận thấy t́nh h́nh nguy hiểm quá tôi phải dời đi nơi khác một thời gian v́ sợ vụ buôn lậu bị bại lộ.

Tôi sống âm thầm cô đơn trên từng gác trọ thật không khác nào kiếp sống tù, nhưng dù sao tôi cũng được no ấm hơn anh em c̣n kẹt lại trong trại tù ngoài Yên Bái. Lúc bấy giờ tinh thần tôi bị khủng hoảng trầm trọng v́ sợ bọn cộng sản t́m ra tôi và bắt lại là đời tàn. Cứ vài ba tháng tôi lén lút về thăm các con đang sống nhờ nơi nhà ông bà ngoại mấy cháu. Có một đêm nhằm lúc tôi về, tên công an khu vực đến xét hộ khẫu, tôi phải thoát ra cửa sau ẩn trốn cạnh chuồng gà. Ôi ! thật là nhục nhă cho cuộc đời lính bại trận. 

                                                                                        

Trong thời gian đó vợ tôi luôn t́m đường dẫn tôi vượt biên để bảo toàn tánh mạng. Trong hoàn cảnh trốn chui trốn nhủi tôi bắt buộc phải vượt biển đơn thân độc mă đi trước. Thật là đau đớn không khác nào ra đi mà bứt tim gan để lại v́ không biết đến bao giờ mới gặp lại vợ con? Nhưng tôi quyết phải ra đi để t́m con đường sống rồi sẽ tính tới việc gia đ́nh sau.

 

Mối căm thù nầy không phải chỉ của riêng tôi mà cũng là của biết bao nhiêu chiến sĩ đồng đội của tôi trong cùng một hoàn cảnh. Tôi không bao giờ quên mối hận nầy được, cho nên mặc dù qua Mỹ đă lâu rồi và tôi rất thương nhớ quê hương, nhớ vài anh chị em ruột thị c̣n kẹt lại bên quê nhà, nhưng tôi thật sự không muốn trở về lúc nầy để nh́n thấy lại mặt mày bọn man ri mọi rợ và tôi cũng không muốn thấy lá cờ máu hôi tanh của bọn chúng.

 

Sau hai lần ra Nha Trang mà chuyến đi không thành phải trở về. Lần thứ ba có chuyến vượt biên từ Cà Mau nhưng bị đ́nh hoản rồi. Vợ chồng chúng tôi rất khổ sở v́ chuyến đi bị đ́nh hoản nhiều ngày rồi lại bỏ cuộc, nên trong hai tuần lể ăn ở chờ đợi đă hết tiền. Vợ tôi phải bán mấy bộ đồ chúng tôi mang theo để sống qua ngày, đến cuối cùng không c̣n ǵ để bán ngoài bộ đồ đang mặc. Thật là thất vọng vô cùng ! v́ chẳng quen biết ai nơi đây mà xin xỏ hay vay mượn tiền, và lúc nầy cuộc sống của mọi nhà đều rất khó khăn.  Tôi nói đùa với vợ tôi rằng : không lẽ chúng ḿnh bán hết cả bộ đồ đang mặc và mặc đồ tắm biển mà trở về Sàig̣n hay sao ? Chúng tôi chỉ c̣n đủ tiền đi quá giang xe chở gạo đến nhà thờ Phụng Hiệp Cần Thơ để xin tiền bà chị tôi lúc đó đă đổi về làm bà Nhứt tại một nhà ḍng tu nhỏ nơi đây để xin tiền mới có đủ mà mua vé xe chợ đen về đến Saigon. Thật là khốn cùng !                                                                                    

 

Cứ mỗi lần đi không được tôi quá thất vọng và chán nản v́ phải tiếp tục cuộc sống âm thầm lén lút trên gác trọ với bao nỗi lo âu !.  Muốn t́m mảnh đất tự do để dung thân không phải là dễ dàng. Hai chữ Tự Do thật là quí giá vô cùng !

 

Vấn đề di chuyển vào những năm đó rất khó khăn v́ xe đ̣ bị kiểm duyệt và rất hạn chế. Trong những lần đi t́m đường vượt biển vợ chồng chúng tôi ngủ bến xe rất thường cũng như bao nhiêu hành khách phải nằm bến xe để dành ưu tiên đăng kư mua vé, nếu chậm trể là hết . Muốn di chuyển từ Saigon ra Nha Trang hay từ Sàig̣n xuống tỉnh cũng phải vất vả như thế. Có những khi chúng tôi phải ngủ bờ ruộng hay ngủ g̣ mả v́ không dám vào khách sạn dễ bị bọn công an chú ư. Tôi đă quen cái cảnh ngủ bờ ngủ bụi gian khổ như thế nầy trong những năm chinh chiến, nhưng trong cái thế hào hùng của người của người lính trận đi hành quân diệt giặc. Bây giờ trong hoàn cảnh của một kẻ tù vượt ngục và vượt biển thật là nhục nhă ê chề. Tôi thật thương vợ tôi vô cùng, tội nghiệp và xót xa cho vợ tôi phải chịu cảnh vất vả, đắng cay như thế nầy.

 

Cuối cùng tôi đi được an toàn đến bờ biển Thái Lan trên một chiếc thuyền con chỉ dài hơn chín thước. Sau khi tôi đă thoát khỏi bàn tay cộng sản vợ tôi đă phải tự một ḿnh  hướng dẫn và lèo lái chiếc ghe nhỏ dẫn dắt sáu đứa con thơ  đến bờ biển Mă Lai b́nh yên vô sự.

 

 Thật là một ơn phước lớn của Thượng đế đă ban cho gia đ́nh chúng tôi ! Thế là từ đây một thời hoạn nạn khốn khổ của gia đ́nh đă qua.  Chúng tôi nghĩ rằng mưu sự tại nhân và thành sự tại Thiên. Chúng tôi rất mang ơn Thượng đế đă giúp gia đ́nh chúng tôi được sớm đoàn tựu và đă ổn định cuộc sống nơi xứ người.

 

Nhưng ngày nay lại rủi thay ! với hoàn cảnh hiện tại tôi không hiểu rằng khi đất nước thật sự được thanh b́nh và tự do dân chủ tôi có thể trở về lại quê nhà được không ? Tôi xin ghi vài ḍng thơ đơn giản nói lên  tâm trạng của tôi hiện tại.

 

  Lá Vàng Rơi

 

Bên hồ lá úa vàng rơi

Đêm nay mưa nhẹ… gió hiu hắt buồn !

Gío đưa những hạt mưa tuôn

Như ḍng nước mắt… đời buồn xót xa !

 

 Có ai hiểu được ḷng ta ?

Mưa rơi tí tách ruột rà đớn đau 

Nhớ nhà ḷng thấy nao nao

Đôi chân đă mất… biết sao trở về ?

 

Bao năm ta đă xa quê

C̣n chi ước mộng ngày về quê hương

Làng xưa, đường cũ, mái trường

Ngh́n trùng xa cách nhớ thương vô vàn !

 

Chiến hữu Nguyễn Minh-Châu – TĐ 3 TQLC