Trên
Vùng Đất Hứa
( Trích
trong hồi kư “ Cuộc Đời Đổi Thay và Tâm T́nh Một Thế Hệ “
)
Chiến
hữu mũ xanh Nguyễn Minh Châu
“ Từ khi non nước điêu tàn
Mang thân lưu xứ ḷng man mác buồn ! “
Hai hoàn cảnh khác biệt
của hai lần đi Mỹ.
Lần
thứ nhứt tôi được sang Mỹ du học tại trường Fort Benning, thuộc Tiểu Bang Geogia Hoa Kỳ năm 1956 và đang mang cấp bực
Thiếu uư . Ngày ra trường khoá 5 Thủ Đức chúng tôi c̣n mang cấp bực của
Pháp với một gạch vàng trên vai trông cũng oai lắm ! và người dân hay gọi chúng
tôi là Quan Một hoặc là Ông Một, nhưng trông vẻ mặt chúng tôi c̣n rất ngay thơ
không có vẻ ǵ là người thanh niên chững chạc. Đôi khi tôi cũng tự cảm
thấy hơi e thẹn v́ mới bắt đầu dấn thân vào cuộc đời binh nghiệp
c̣n quá trẻ với cấp bực Thiếu uư, trong khi có nhiều ông Hạ sĩ quan và binh
sĩ tuổi đáng tuổi cha hoặc chú của tôi.
Khi
vào các nhà hàng ăn bên Mỹ chúng tôi gọi Beer để uống thường hay bị Cảnh
sát hạch hỏi giấy tờ, v́ lúc bấy giờ giờ có rất ít sĩ quan Việt
Nam du học, nên họ cứ tưởng chúng tôi là học sinh hay sinh viên người Trung
Hoa c̣n trẻ chưa đủ tuổi được phép uống rượu. Một thời
gian sau, cảnh sát thành phố đă hiểu biết chúng tôi là sĩ quan du học, chúng tôi không
c̣n bị khuấy nhiểu nữa. Nhóm của chúng tôi thuộc khoá thứ hai tại quân trường
nầy.
Chúng
tôi cũng rất bực ḿnh khi dân chúng Mỹ cứ gọi chúng tôi là
“ The Chinese “ . Lúc bấy giờ có nhiều người Mỹ không biết nước
Việt Nam là ở đâu? Chúng tôi phải giải thích là nước Việt Nam nằm trong vùng Indochina th́ họ mới hiểu biết
xuất sứ của chúng ta. Nghĩ mà buồn cho dân tộc ḿnh là một nước nhược
tiểu bị Pháp đô hộ hằng trăm năm và cùng chung số phận với các nước
trong liên bang Đông Dương, nên họ chẳng biết tên và vị trí của xứ Việt
Nam ta đă có trên bốn ngàn năm văn hiến.
Năm 1956 chúng tôi được đi
du học bằng máy bay Pan Of America vé hạng nhứt như thượng khách, ghế ngồi
rộng răi. Lần đầu tiên trong đời được đi phi cơ thấy sao
cái khung cảnh trên máy bay sạch sẻ, thơm tho và sang trọng quá, không phải như thuở
tôi c̣n là học tṛ ngồi trên những chiếc xe đ̣ đi về miền Tây chật hẹp,
cũ kỷ, ọp ẹp và dơ bẩn mà lúc xưa tôi thường đi về quê vào những
lúc nghỉ hè. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi được thưởng
thức những bửa ăn đối với tôi rất là sang trọng với các thức
ăn Âu Mỹ thật lạ khẩu với bánh ḿ và bơ sửa
ngon lành, nên tôi cảm thấy hănh diện và vui thích lắm !
Các cô tiếp viên Mỹ trẻ đẹp
tiếp đăi các sĩ quan Việt Nam du học rất lịch sự tử tế. Vấn đề bất đồng
ngôn ngữ làm cho chúng tôi gặp khó khăn khi cần họ giúp vấn đề ǵ. Mặc
dù chúng tôi đă có học chút ít sinh ngữ Anh ở Trung học, nhưng bây giờ mới thấy
vốn liếng Anh văn của ḿnh chẳng nhằm nḥ ǵ nên cũng ngại ngùng lắm khi
cần tiếp xúc với các cô tiếp viên hàng không . Đây cũng là lần thứ nhứt
tôi được nghe giọng nói dễ thương của mấy cô đầm Mỹ, nhưng
khác hẵn cách phát âm của các ông giáo sư Việt Nam đă dạy chúng tôi ở trường.
Thật buồn cười cho anh em chúng tôi là khi nghe các cô tiếp viên nói những tràng tiếng
Ăng Lê để hướng dẫn cách xử dụng các túi cấp cứu trên phi cơ,
anh em chúng tôi ngơ ngác như con nai vàng, cũng như vịt
mà nghe sấm. Chúng tôi chỉ nghe được loáng thoáng vài tiếng nên phải để
mắt chăm chú nh́n sự biểu diễn của họ cũng hiểu được phần
nào. Đôi khi muốn nói với các cô tiếp viên hàng không những điều ǵ mà bí quá nên
anh em chúng tôi pha đại vài tiếng Tây vào. Các cô tiếp viên Mỹ lại càng mù tịt c̣n
hơn chúng tôi dốt tiếng Ăng Lê nữa.
Và lần thứ nh́ vào cuối năm
1979, tôi qua Mỹ với tư cách là thuyền nhân tỵ nạn từ Thailand với số thứ
tự thuyền nhân của tôi là “ T - 60662 “. Mỗi thuyền nhân đều có con số
thứ tự bắt đầu bằng chữ Alphabet, thí dụ chữ “ T “ là thuyền
nhân tỵ nạn từ Thailand, “ M “ là tỵ nạn từ Malaysia vv… Đến nay tôi vẫn c̣n nhớ con số “ T “ nầy và có lẽ
sẽ nhớ nó măi tới chết không quên v́ tôi đă thuộc nằm ḷng như thuộc số
quân của tôi trong Quân đội.
Mỗi lần Ban chỉ huy trại
dùng loa phóng thanh gọi thuyền nhân chuẩn bị hành trang để lên đường đi
định cư họ kêu tên họ kèm theo con số “ T “ cho khỏi bị trùng người. Mỗi khi trại gọi thông báo danh sách, ai ai cũng lắng
nghe và hồi họp chờ đợi gọi tên ḿnh. Những ai đă được tuyên
thệ lâu rồi và chỉ c̣n chờ ngày đi Mỹ mà bị lọt sổ trong những
lần Ban chỉ huy trại đọc danh sách là buồn lắm ! v́ mọi người rất
mong tới nơi định cư sớm để lo ổn định cuộc sống
và c̣n lo việc bảo lănh gia đ́nh.
Tôi rất vui mừng khi được
xuất trại Songkhla để sang Hoa Kỳ, nhưng trong ḷng tôi không khỏi buồn tủi
v́ lần đi nầy tôi là một chiến sĩ bại trận, ra tù rồi vượt
biên, bây giờ tôi phải xin xỏ được đến vùng đất của họ
để dung thân. Tôi được đối xử đồng đều giống như
bao nhiêu thuyền nhân khác, chứ không phải được đối xử quí trọng
như một sĩ quan đồng minh của Hoa Kỳ được mời sang du học
như năm xưa.
Lần nầy tôi cùng các thuyền nhân
được chở bằng máy bay Charter DC 9 cũ kỷ. Họ cho ăn đồ fast food,
mỗi người một phần cơm chiên đựng trong hộp giấy, chớ đâu
được ăn uống sang trọng và được uống rượu Beer hay Champagne như hồi thuở đi du
học bằng máy bay du lịch. Ghế ngồi nhỏ hẹp chật ních nên rất mệt
mỏi v́ bay đường xa, nhưng ḷng tôi cảm thấy vui sướng và phấn khởi,
v́ lần đi nầy là bỏ xứ mà ra đi để chạy chết.
Tôi bước chân xuống phi trường
Oakland lúc 8 giờ đêm ngày 31 October năm 1979, ngày lễ Halloween của trẻ con Mỹ.
Mỗi năm đến ngày lễ nầy là tôi nhớ ngay kỷ niệm ngày tôi mới đặt
chân lên vùng đất hứa.
Khi vừa bước ra khỏi phi
cơ vào lúc tiết trời giữa mùa Thu, có luồng gió hơi mát lạnh rất dễ chịu.
Trước đây vài tháng, khi vừa bước chân đến bờ biển Thailand tôi đă hít một
hơi thở rất khoan khoái của luồng gió biển mát rượi v́ biết là tôi đă
thoát chết trong tay cộng sản và cũng thoát chết v́ sóng to của biển cả trong
mấy ngày lênh đênh trên chiếc thuyền con.
Hôm nay, một lần nữa tôi hít một
hơi thật dài và rất vui sướng một luồng không khí tự do trên một xứ
có nhân quyền. Rồi nay mai đây tôi sẽ có cơ hội t́m một cuộc sống mới
nơi xứ văn minh và giàu mạnh nhứt hoàn cầu. Tôi đă có được cuộc
sống an toàn, tự do và tôi sẽ làm được bất cứ việc ǵ tôi có thể
làm theo khả năng.
Tất
cả thuyền nhân tỵ nạn phải vào pḥng làm việc của ban Y tế để khám
sức khỏe lại trước khi cho về nhà của người bảo trợ. Cô y
tá Mỹ nh́n hồ sơ lư lịch và hồ sơ bịnh lư
của
tôi được mang đến từ Thailand. Cô nh́n thấy tôi chống gậy rồi cô ấy lắc đầu, làm
tôi nghĩ rằng chắc cô Mỹ nầy thấy tôi bị tàn phế v́ chiến tranh Việt
Nam và bị tù khổ sai ở núi rừng miền Bắc nên thương hại tôi chăng
?. Nhưng sau đó cô hỏi tôi một câu cộc lốc: “ Ông có đi làm được
không? ” Tôi nhận định ngay là chắc chị đầm Mỹ nầy nghĩ ḿnh
qua đây rồi sẽ ăn bám chánh phủ Mỹ mới hỏi tôi câu nầy. Tôi chỉ
trả lời vắng tắt : “ Ở Việt Nam tôi c̣n đánh giặc được,
qua đây làm cái ǵ mà chẳng được!” Cô ấy trả lời : “ I do believe
you”. Sau đó cô ấy trả túi hồ sơ tỵ nạn lại cho tôi và tôi sáp nhập
vào toán của những người thuyền nhân ( boat people ) đi theo diện “ hội
chùa “ một danh từ mà ở trại tỵ nạn hay gọi những người không
có thân nhân ruột thịt bảo lănh.
Gia
đ́nh Mỹ bảo trợ tôi ở tại thành phố Carmel thuộc Monterey County, một
thành phố rất đẹp có nhiều du khách và nơi
đây có nhiều tài tử và dân nhà giàu cư ngụ. Carmel nằm cạnh bờ biển xinh đẹp nổi tiếng của tiểu
bang California. Hiện nay ông Thị trưởng của thành phố nầy là tài tử Film Cowboy
Clint EastWood. Rất may mắn cho tôi, sau 2 tuần đến Mỹ ông giám đốc Cơ
quan đă tiếp giúp tôi định cư chịu mướn tôi làm Cố vấn tỵ nạn.
( Resettlement
counselor ) với số lương $5.00 một giờ.
Qua đây làm việc mới thấy
Anh ngữ của ḿnh c̣n quá kém mà phải tiếp xúc với nhiều người Mỹ trong
mọi lănh vực khác nhau. Cách phát âm bậy bạ chẳng đúng giọng, ḿnh cứ nói mà
họ cứ “ what “ măi, thật cũng mắc cở
và chán nản quá. Tôi lo lắng và buồn lắm, nhưng hết sức cố gắng học
hỏi thêm mà làm việc để kiếm tiền gởi về cho vợ con.
Nhận thức được hiện
t́nh, tôi trao dồi thêm Anh ngữ như đọc sách báo, nghe truyền h́nh, học cách phát
âm lại và nhờ làm việc tiếp xúc với người Mỹ nhiều nên vốn Anh
văn ngày càng khá hơn.
* Một chút quà cho vợ
con.
Tôi được người Mỹ
là chủ hảng sản xuất đồ gỗ bảo trợ qua hội World Relief, trụ
sở chính của Hội nằm tại New York. Hội trợ cấp cho tôi $200.00 để lo sắm sửa lúc ban đầu,
nhưng người bảo trợ giúp tôi c̣n hơn số tiền nầy nhiều lắm.
Tôi được vị bảo trợ mua cho một chiếc xe hai cửa bốn chỗ ngồi
hiệu Datsun mới toanh, giá tiền chiếc xe nầy lúc đó là sáu ngàn dollars. Trong khi đó,
đa số tỵ nạn qua trước tôi lái những chiếc xe cũ kỷ hiệu Pinto
mà mấy bà tỵ nạn gọi là xe Bín Tồ, nghe cũng ngộ ngộ. Vào lúc đó, hể
thấy xe Pinto chạy ngoài đường dân Mỹ ở đây biết ngay là “ Boat people
“.
Tôi rất mang ơn ḷng nhân từ của
vị bảo trợ tôi. Nhưng chúng tôi đă mất liên lạc với nhau vài năm sau khi
gia đ́nh chúng tôi di chuyển lên thành phố San Jose. Chúng tôi có được tin buồn rằng cơ sở làm ăn của
người bảo trợ bị phá sản và họ đă
đi đến Tiểu Bang khác.
Tôi rất lấy làm sung sướng
v́ thấy cuộc đời ḿnh nay được lên hương. Nhưng tôi không dám lạc
quan và tự hào, v́ nhớ ông bà Việt Nam thường nói mấy câu rằng : “ Sông có khúc người có lúc “
và “ hết cơn bỉ cực đến hồi thới
lai “. Nhưng, nào ai có biết được chặng
đường tiếp nối của cuộc đời ḿnh tới nữa rồi sẽ
ra sao ? Tôi cứ rán làm hết sức của tôi để lo cho vợ con c̣n kẹt lại
quê hương trong hoàn cảnh thiếu thốn và tương lai của con tôi sẽ là mù mịt
nếu c̣n sống dưới chế độ cộng sản man rợ. C̣n chuyện “
ngày sau sẽ ra sao ? “ cũng một phần do cái số Trời định, “ mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên “.
Tôi
lănh được cái check đầu tiên sau hai tuần đầu làm việc c̣n nguyên vẹn
v́ người bảo trợ chưa muốn tôi ra ở riêng nên vấn đề ăn ở
không phải tốn kém. Nhân dịp lễ Thanksgiving tôi xin nghỉ thêm vài ngày phép để xuống
miền Nam Cali, trước hết là thăm hai người ân nhân của tôi là cựu Đô
Đốc Chung Tấn Cang, Tư lịnh Hải Quân và cựu Trung tướng Lê Nguyên Khang,
Tư lịnh Thuỷ Quân Lục Chiến của tôi . Sau đó tôi nhờ cô em bà con gởi
một thùng quà trị giá $200.00 về Việt Nam. Tôi nghĩ rằng vợ con tôi sẽ bán nó ra để có một số
tiền lo cho cuộc sống được đở khổ nơi quê nhà. Tôi cảm thấy
vui sướng vô cùng v́ đến bây giờ tôi mới bắt đầu làm ra tiền để
giúp được ǵ cho vợ con tôi, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Gia đ́nh đoàn tụ.
Tôi nhớ lúc c̣n chiến tranh, là trai
thời loạn với cuộc sống rày đây mai đó trên bốn miền chiến thuật
và sự chết chóc rất gần kề nên cuộc đời binh nghiệp cũng lăng tử
lắm. Những chuyện trái tim bên lề thật t́nh là cũng khó tránh khỏi, nhưng tôi
cố không để bị lôi cuốn vào cảnh có trăng rồi quên đèn nên tôi không dám
đèo bồng mà gánh thêm người yêu làm vợ, để
cho gia đ́nh được êm ấm và hạnh phúc. Tôi vẫn giữ vững vàng sự thuỷ
chung với vợ con mà tôi cũng nhớ lắm trong những lúc đi chinh chiến xa nhà và
gian khổ. Vợ con tôi ở hậu phương cũng như các bà vợ của chiến sĩ rất lo lắng
và ngóng trông chúng tôi trở về b́nh yên từ miền hành quân, sau mỗi chuyến đi.
Đời
người chiến sĩ nhọc nhằn
Dấu
t́nh riêng rẻ trọn cùng nước non
Tuy nhiên
cũng lúc chạnh ḷng
Thương
người vợ trẻ cô pḥng lẻ loi
Thức
khuya hôm sớm một ḿnh
Thay
chồng nuôi trẻ phụng thờ mẹ cha
( Trích một đoạn thơ của TN )
Bây giờ vợ con tôi đang nôn nóng
chờ đợi tôi bảo lănh sang Mỹ c̣n hơn là thuở xưa mà hằng ngày chờ
đợi chúng tôi trở về b́nh an từ miền hành quân nơi xa.
Thời gian tôi tạm sống cuộc
đời độc thân bên xứ lạ quê người là thời gian mà tôi phải phấn
đấu tư tưởng về vấn đề t́nh ái cũng gay go lắm. Lúc nầy
tôi được bốn sáu tưổi đời, cũng không c̣n trẻ ǵ mà cũng chưa
phải là già lắm. Nhưng tôi không thể quên được vợ và con nhỏ đang
trong cảnh sống vất vả tại quê nhà. Cái xúc cảm làm cho tôi nhớ măi là lần
đầu tiên khi tôi cùng bà bảo trợ vào chợ Super Market Safeway, tôi nh́n thấy thức
ăn và bánh trái tràn ngập trong chợ làm tôi vô cùng đau xót v́ nghĩ tới con ḿnh cũng
như những đứa trẻ Việt Nam khác đang bị bọn cộng sản cho ăn
đói.
Với
kinh nghiệm làm cố vấn tỵ nạn trong nhiều năm, tôi cũng đă gặp nhiều
hoàn cảnh phũ phàng lắm. Có những ông qua Mỹ trước
như tôi c̣n bỏ lại vợ con hoặc một số bà đi vượt biên lọt mà
chồng con v́ lư do ǵ mà bị kẹt lại. Những ông nầy có người phụ nữ
khác và các bà nọ cũng có người đàn ông khác. Qua những tháng năm dài, t́nh cảm
bạn bè trở thành mối t́nh yêu thấm thiết rồi chính thức ăn ở với
nhau và sanh con đẽ cháu. Đến khi ông chồng hoặc bà vợ dẫn một bầy
con vượt biên đến nước thứ hai th́ hậu quả là họ bị nhứt
đầu v́ hoàn cảnh éo le và khó xử cho cả đôi bên. Tôi thấy những trường
hợp nầy không có ít lắm đâu.
Tôi
cho rằng những cảnh xáo trộn gia đ́nh như thế là do chế độ cộng
sản bạo tàn đă gây ra những cuộc vượt biên, nên mới có t́nh trạng kẻ ở người
đi.
Đúng 5 giờ 30 chiều ngày 31 tháng
December năm 1979, sau khi đi làm ở sở về tôi nhận được lá thơ như
h́nh thức một bức công điện, nhắn tin cho biết là vợ tôi và và sáu đứa
con nhỏ tôi đă vượt biển tới trại tỵ nạn Kota Baru, Malaysia vào thượng
tuần tháng December năm 1979. Tôi rất bàng hoàng và ngạc nhiên v́ không ngờ là vợ và các
con tôi đă vượt biên lọt, nhưng dưới lá thơ có chữ kư mà tôi vẫn c̣n
nhớ ràng ràng là nét chữ kư của vợ tôi. Trong lá thơ cũng có ghi rơ tên tuổi của
vợ và của sáu đứa con từ đứa đầu đến cháu út. Tôi xem rất
kỷ tên và năm sanh của vợ tôi và sáu con thật đúng không c̣n chi nghi ngờ nữa.
Tôi lặng người đi trong khoảnh
khắc v́ xúc động, rồi nỗi vui mừng làm tôi chảy nước mắt !. Sau
nhiều tháng lo âu chờ đợi tin tức gia đ́nh bên quê nhà, bức công điện đến
với tôi như “ một phép nhiệm mầu “ .
Tôi liền điện thoại đến
hảng của người bảo trợ báo tin mừng nầy và họ đă hứa là sẽ
giúp tôi tiếp khi gia đ́nh tôi qua tới Mỹ, v́ tôi mới qua làm việc được
hai tháng chưa đủ khả năng để lo cho gia đ́nh.
Vợ tôi và các cháu được Trưởng
trại Mă Lai rất ưu đăi v́ ông Thiếu tá trưởng trại nói với vợ tôi
rằng : Chúng tôi sẽ đặc biệt cho bà một ân thưởng là v́ bà là người
phụ nữa đầu tiên đă can đảm lèo lái con thuyền đến xứ chúng
tôi an toàn. Ông sĩ quan Mă Lai có hỏi vợ tôi đi vượt biển từ đâu và bằng
cách nào ? Vợ tôi mới lật hải đồ ra chỉ lộ tŕnh đi biển và dùng
cái hải bàn để dẫn hướng. Các sĩ quan Mă Lai rất thán phục và hỏi
bà có phải là nữ quân nhân không ? vợ tôi trả lời : v́ chồng tôi là một cựu
sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến Việt Nam đă vượt biên đi trước và
đang sống bên Mỹ. Lúc xưa tôi cũng đă được chồng tôi chỉ dẫn
cách xử dụng bản đồ và cách xử dụng địa bàn của Quân đội.
Ông Thiếu tá trưởng trại
cho mở hồ sơ tỵ nạn cho vợ con tôi ngay khi nhập trại để được
Mỹ cho phỏng vấn sớm và ông đă giúp vợ tôi gởi lá thơ báo tin cho tôi.
Một ngày sau khi được tin
từ Mă Lai tôi liền nhờ tổng đài điện thoại giúp tôi có số phone của
trại tỵ nạn Kota Baru và tôi đă gọi điện thoại thăm gia đ́nh tôi mỗi
tuần. Đây là một ân huệ của trại cho vợ tôi mà chưa ai có được.
Lúc gia đ́nh tôi qua đến Mỹ
th́ tôi cũng đă có chút kinh nghiệm lo cho người tỵ nạn mới tới nên vấn
đề giấy tờ và thủ tục không có ǵ khó khăn. Gia đ́nh tôi bây giờ là tám
người tất cả mà với chiếc xe hai cửa chỉ có 4 chổ ngồi nên mỗi
lần di chuyển phải mất hai bận.
Tôi c̣n nhớ vợ tôi đă hỏi
một câu nữa đùa và nữa thật với tôi rằng : Bộ anh tưởng vợ
và con anh ở lại Việt Nam mút mùa hay sao mà anh mua xe có 4 chỗ ngồi ? Anh trở lại sống cuộc
đời độc thân bên xứ Mỹ nầy nên mua chiếc xe đủ chỗ để
chở chàng và nàng đi thôi phải không ? Thật ra v́ không dám đ̣i hỏi ḷng tốt của
người bảo trợ nên tôi nói với vị ấy là mua cho tôi một chiếc xe nho nhỏ
cho rẻ tiền để có chân đi làm là quí lắm rồi.
Trời
sanh voi sanh cỏ.
Lúc tôi cô đơn mới bước chân lên vùng đất hứa tôi chỉ
có một cái túi xách tay bên trong có vài bộ đồ lót và bộ đồ Tây tôi mặc đi
Mỹ. Tôi đă suy tư nghĩ ngợi và lo lắng rằng nếu vợ con tôi qua tới
Mỹ rồi, không biết tôi có lo nổi để ổn định cuộc sống gia
đ́nh nơi xứ người lúc ban đầu được không ? Nhưng tôi nhớ
tới câu nói Trời sanh voi sanh cỏ mà cảm thấy bớt lo đi phần nào. Tôi đă
sống trong trại tù khổ sai mà cũng không chết được mà qua xứ nầy
đâu có dễ dàng chết v́ đói rách.
Rồi vợ
con đă đoàn tụ với tôi ngày 18 tháng June năm 1980. Tất
cả sáu cháu đều c̣n nhỏ phải đi học nên cuộc sống có vất vả
và khó khăn lắm. Với tiền lương chỉ có $5.00 một giờ mà phải nuôi
gia đ́nh tám người không đủ sống. Vợ tôi cố gắng t́m được
một việc làm tại sở Y tế của thành phố Seaside thuộc Monterey County để
lo cho gia đ́nh đở khỗ hơn.
Đầu năm
1981 tôi xin được việc làm cũng tại Cơ quan định cư của thành
phố San Jose với số lương khá hơn.Vợ tôi đă thi đậu khoá học
về những danh từ Y khoa “ Medical Terminology “ và được nhận vào nhà thương Santa Clara Valley Medical Center làm thông dịch viên giúp người
tỵ nạn Việt Nam không nói được tiếng Anh. Cuộc sống của gia đ́nh
bắt đầu tạm ổn định từ đấy nhưng cũng chưa khá giả
mấy.
Nhưng lần
hồi rồi cũng đâu vào đó, ông bà ḿnh hay nói là giống như < bánh ích lột lần > , sáu đứa con tuần tự
và lần lượt ra trường rồi đi làm. Cuộc sống gia đ́nh bắt đầu
tương đối được thoải mái.
Con cái lớn
lên đă thành gia thất. Gia cảnh khởi đầu từ lúc tôi đơn thân độc
mă qua Mỹ một ḿnh, bây giờ tất cả con, dâu , rễ và cháu nội ngoại tổng
cộng là hai bốn người, con số cũng khá đông trong một gia đ́nh Việt
Nam.
Bây giờ hồi tưởng lại ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi không khỏi
ngậm ngùi nhớ lại cuộc đời đă trải qua quá nhiều gian khổ, qua nhiều
cảnh thăng trầm và đổi thay cũng như các chiến hữu đồng đội
của tôi. Người ta gọi là lên voi xuống chó chẳng mấy hồi. Một đời
binh nghiệp hai mốt năm bị xuống dốc quá thê thảm và đen tối. Tôi cũng
như bao nhiêu đồng đội của tôi đưa đầu vào rọ cho bọn cộng
sản đày đoạ trong các trại tù khổ sai để chúng trả thù dă man. Nhờ
bị thương tàn phế nên tôi được thả ra sớm hơn, tôi phải sống ẩn dật rày đây mai đó v́ trốn việt cộng,
rồi vượt biên an toàn qua tới xứ lạ quê người lập lại cuộc
sống mới trên vùng đất tự do.
Nhưng lúc bấy giờ tôi cũng không quên những đồng đội
của tôi vẫn c̣n kẹt lại trong tù và ḷng vẫn ưu phiền v́ chưa quên được
nỗi nhục của một Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hùng mạnh nhứt vùng Đông
Nam Á Châu mà phải bị bại trận. Hậu quả là cả một miền Nam đă thành
một trại tù khổng lồ đưới ách thống trị của bọn cộng
sản vô nhân.
Tôi luôn ước mong một ngày nào gần đây chế độ cộng
sản phi nhân tại quê nhà Việt Nam sẽ không c̣n tồn tại và sẽ sụp đổ
như các nước cộng sản Đông Âu từ khi bức tường Bá linh bị phá
hủy vào đêm 9 tháng November năm1989.
Tới chừng tuổi nầy tôi không c̣n mong muốn những ước
vọng cao xa, chỉ mong được cuộc sống b́nh yên để hưởng tuổi
an nhàn lúc xế chiều. Tôi chỉ :
Mong sức khoẻ thật đủ đầy
Tâm an lạc, sống đời b́nh thản .
Chiến
hữu Nguyễn Minh Châu